NGUYỄN QUANG DUY (Melbourne, Australia) –
Sau trận Phước Long, VNCH còn vài tháng là sụp đổ
.
Sau cả tháng chiến đấu, đêm 6/1/1975, binh sỹ Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Phước Long và núi Bà Đen, Tây Ninh. Vài tháng sau VNCH hoàn toàn sụp đổ.
Cuộc chiến đã chấm dứt 44 năm nhưng còn quá nhiều điều đến nay vẫn chưa hiểu được và có thể không bao giờ hiểu được.
Hồi ký của những người trong cuộc cho thấy phần nào sự đẫm máu của cuộc chiến này.
Người ở lại Phước Long
Đại Tá Nguyễn Thống Thành, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Bình Long là người trực tiếp chỉ huy mặt trận Phước Long.
Ông Thành từng đánh trận An Lộc, được vinh thăng đại tá tại mặt trận, và ngày 26/8/1972 được thăng chức tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Bình Long.
Năm 1974 ông được chuyển về Phước Long, giáp ranh biên giới Campuchia, bao quanh là các mật khu của lực lượng cộng sản.
Ông là người Bến Tre và là bạn học của người sau làm Tổng biên tập báo Lao Động, ông Tống Văn Công. Trong cuốn Hồi ký ông Công bày tỏ lòng thương tiếc người bạn như sau:
\”Hơn 30 năm sau, tôi mới biết Nguyễn Thống Thành đại tá tỉnh trưởng Phước Long, bạn tôi, đứng bên kia chiến tuyến, là đại tá tỉnh trưởng đã tử thủ ở thị xã! Nhiều năm sau, trong cuộc họp cựu chiến binh, tôi được nghe một thiếu tá dự trận này kể, anh ta kêu gọi đầu hàng, nhưng Nguyễn Thống Thành đã bắn trả.\”
Còn theo Hồi Ký của Charlie Nguyễn Hoàng Oanh, sỹ quan tình báo, vào sáng ngày 5/1/1975, Đại tá Thành chạy xuống triền dốc sau tư dinh để nhảy xuống chiến hào thì bị đạn cối 57 ly nổ, chết tại chỗ.
Ông Charlie Nguyễn Hoàng Oanh cho biết đã bảo vệ Thiếu úy Sự, cận vệ của Đại tá Thành đã chôn ông cạnh một gốc cây trong dinh tỉnh trưởng.
Trận Bà Đen, Tây Ninh
Ngày 6/12/1974, Liên đội 7 và Tiểu đoàn Trinh sát 47 của quân đội cộng sản nổ súng tấn công Căn cứ Bà Đen.
Một đại đội địa phương quân của Việt Nam Cộng Hòa đã âm thầm rút đi trong đêm 6/1/1975, sau 31 ngày tử chiến.
Trận Bà Đen ít được nhắc đến, nhưng tướng Trần Văn Danh, người trực tiếp chỉ huy phía quân đội cộng sản trong trận đánh núi Bà Đen cho biết tầm quan trọng như sau:
\”… Một trung tâm viễn thông chiến lược quốc tế, thu tin mã thám và là điểm chỉ đường cho B 52 cùng các loại máy bay hiện đại của địch oanh kích vùng giải phóng.
Đồng thời lực lượng do tôi chỉ huy còn thu hút hỏa lực đối phương là Lữ đoàn 81 biệt kích dù, và hai phần ba phi cơ chiến đấu F5E vùng III chiến thuật, kiềm chế sư đoàn 25 bộ binh, phối hợp cùng cánh quân của Năm Ngà đang đánh Tánh Linh, Võ Đắc với sư đoàn 18 của địch.
Ngăn Chặn không cho các lực lượng đối phương yểm trợ Phước Long trận địa của Quân đoàn 4 do anh Hoàng Cầm chỉ huy.\”
Lực lượng VNCH
Phước Long là một tỉnh nhỏ, dân chúng đa số là đồng bào sắc tộc Stieng và Mnong.
Cả tỉnh chỉ có 5 tiểu đoàn địa phương quân, một tiểu đoàn pháo binh, cảnh sát và dân vệ, tất cả ước chừng 2.000 người và đa số là người sắc tộc.
Lực lượng tăng cường gồm hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 5, ba đại đội trinh sát thuộc các Sư đoàn 5, 18 và 25, hai biệt đội Biệt kích 81 Dù và đơn vị tình báo 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu. Tổng số binh sỹ tham dự trận đánh chưa tới 4.000 người.
Không lực yểm trợ bị giới hạn vì cùng lúc phải bảo vệ hai tỉnh Tây Ninh và Phước Long. Còn vũ khí đạn dược phụ thuộc vào không vận và chỉ đủ chiến đấu một tuần.
Lực lượng cộng sản
Theo Lịch sử Quân đoàn 4, quân chính quy của Bắc Việt có 14.500 bộ đội tham dự trận đánh, gồm hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 302, ba trung đoàn thuộc Sư đoàn 7, ba trung đoàn thuộc Sư đoàn 9, hai trung đoàn pháo binh và phòng không, một trung đoàn đặc công, một trung đoàn công binh, một trung đoàn hậu cần, hai tiểu đoàn xe tăng, chưa kể đến số du kích trong tỉnh.
Cứ một tiểu đoàn VNCH đóng trong các căn cứ phải chịu hỏa lực của ít nhất một trung đoàn đối phương.
Giao tranh bắt đầu
Trong các năm 1970 và 1973, Tây Ninh đã là nơi các trận giao tranh ác liệt giữa lực lượng cộng sản với quân đội Hoa Kỳ và quân lực VNCH.
Cuối tháng 10/1974, VNCH được tin mật báo đối phương sẽ mở các trận đánh vào hai tỉnh Tây Ninh và Phước Long.
Ngày 6/12/1974, phe cộng sản mở một số trận đánh trong tỉnh Tây Ninh.
Ngày 12/12, một đồn lính chi khu Phước Bình (Bù Đốp) bị một tiểu đoàn cộng sản tấn công và bị chiếm.
Ngày 13/12, phe cộng sản đánh vào chi khu Đôn Luân (Đồng Xoài) nhưng bị tiểu đoàn Địa phương quân đánh trả phải rút lui.
Ngày 13/12, Đại Tá Nguyễn Thống Thành xuống chi khu Đức Phong (Bù Đăng) kiểm tra hệ thống phòng thủ.
Ngày 14/12, Chi khu Đức Phong bị 1 trung đoàn tấn công, quân VNCH chống trả ác liệt nhưng yếu thế nên phải rút quân. Phía cộng sản thiệt hại nặng, đại đội 12 chỉ còn 11 người sau trận đánh.
Ngày 15/12, hai tiểu đoàn đặc công tấn công chi khu Bố Đức (Bù Na) do một đại đội địa phương quân và một trung đội pháo binh đóng.
Theo Charlie Nguyễn Hoàng Oanh, pháo binh sử dụng hai đại bác bắn trực xạ vào bộ đội cộng sản nên trận đánh phơi đầy xác người. Hai đại bác bị tịch thu. Trung uý Thoại bị bắt và bị giết tại chỗ.
Chi khu Bố Đức được một tiểu đoàn Sư Đoàn 5 tăng cường và máy bay ném hàng ngàn bom xăng, phía Bắc Việt thiệt hại nặng phải rút quân.
Ngày 17/12, không vận chở tiếp liệu đổ xuống Phước Long và di tản dân chúng ra khỏi vùng giao tranh.
Ngày 22/12, 1 trung đoàn CS lại mở cuộc tấn công vào chi khu Bố Đức (Bù Na) hôm sau 23/12 thì chiếm được.
Ngày 26/12, 1 trung đoàn với pháo binh và phòng không tấn công chi khu Đôn Luân (Đồng Xoài). Trước hỏa lực quá mạnh Sư Đoàn 5 không thể đổ quân tiếp viện, Đồng Xoài thất thủ.
Như vậy sau hai tuần VNCH chỉ còn giữ lại núi Bà Rá, thị trấn Phước Bình và thị xã Phước Long.
Lệnh đánh Đồng Xoài
Tháng 7/1974, Quân đoàn 4 của bộ đội miền Bắc được thành lập với ba sư đoàn bộ binh, Sư đoàn 7 và 9 từ Bắc đưa vào do tướng Hoàng Cầm chỉ huy, được lệnh đánh chiếm Chi khu Đôn Luân (Đồng Xoài).
Hồi ký tướng Lê Đức Anh cho biết kế hoạch ban đầu là đánh Đồng Xoài, nhưng khi đánh lại phải rút quân, vì có lệnh từ Hà Nội pháo và tăng không còn nhiều nên không được sử dụng, không được đánh Đồng Xoài.
Hồi ký Tướng Trần Văn Trà cho biết Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội chỉ thị năm 1975 chưa đánh lớn:
\”Năm 1975 không đánh lớn chỉ lo phá bình định ở đồng bằng Sông Cửu Long. Ở Miền Đông, chủ lực không đánh lớn. B2 định đánh Đồng Xoài, Phước Long, nhưng Bộ không đồng ý mà chỉ đánh nhỏ, giải quyết một số điểm nhỏ trên đường 14 thôi. Năm nay đánh nhỏ là để tích lũy lực lượng chờ thời cơ. Không sử dụng xe tăng, pháo lớn nếu không được Bộ Tổng Tham mưu duyệt từng trường hợp.\”
Lý do thật?
Theo số liệu từ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam số lượng vũ khí viện trợ vào Nam tăng một cách rõ rệt:
- Giai đoạn 1969-1972 (4 năm): tổng số 1.000.796 tấn, gồm 684.666 tấn vũ khí, trang bị và kỹ thuật.
- Giai đoạn 1973-1975 (hơn 2 năm): Tổng số 724.512 tấn, gồm 649.246 tấn vũ khí, trang bị và kỹ thuật.
Theo tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân VNCH, dọc đường mòn HCM có tới 3 sư đoàn vận tải, với 2.000 xe đang ngày đêm hoạt động, và đang xây dựng ống dẫn dầu từ Hạ Lào vào biên giới Cao Nguyên để đưa dầu vào tận Quân Khu 3.
Sỹ quan quân y Đàm hữu Phước, Biệt Kích 81, bị bắt đưa ra Bắc trên đường mòn HCM đã thấy: \”…từng đoàn quân Cộng sản Bắc Việt lũ lượt tiến vào Nam cùng với cơ giới nặng, xe tăng, trọng pháo và hỏa tiễn SAM.\”
Việc thiếu pháo lớn và tăng như lời giải thích bên trên như vậy là không đúng.
Tướng Lê Đức Anh đã đưa hai trung đoàn Chủ lực Miền (271 và 201) thuộc Sư Đoàn 302 đánh chiếm hai chi khu Đức Phong và Bố Đức.
Tướng Trần Văn Trà khi đó đang ở Hà Nội mới thuyết phục ông Lê Duẩn để tung hai sư đoàn chính quy 7 và 9, với pháo và tăng vào đánh chi khu Đôn Luân rồi sẵn đà đánh chiếm toàn tỉnh Phước Long.
Cũng có thể ông Lê Duẩn chưa rõ phản ứng của Mỹ nên có ý định đợi mùa tranh cử Tổng thống Mỹ 1976 sẽ tổng tấn công khi đó thuận lợi hơn.
Tiếp viện Phước Long
Sau Hiệp định Paris 1973 Mỹ rút khỏi miền Nam, viện trợ cho VNCH bị cắt dần, vũ khí quân trang càng ngày càng thiếu hụt, máy bay thiếu xăng, xe thiếu phụ tùng thay thế, súng và pháo thiếu đạn…
Lực lượng cộng sản lại gia tăng hoạt động trên toàn miền Nam, mở hai mặt trận tại hai tỉnh Tây Ninh và Phước Long cùng lúc và nhất là kế hoạch tấn công đã thay đổi vào phút cuối.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Dương Quốc Đống và các tướng lãnh VNCH đã không có được những tiên liệu và quyết định đúng lúc để tiếp viện Phước Long.
Tổng thống Thiệu và Bộ Tổng Tham mưu lên kế hoạch gởi một sư đoàn tiếp viện Phước Long nhưng không kịp.
Ngày 31/12, một trung đoàn Bắc Việt với thiết giáp và pháo binh tấn công vào chi khu Phước Bình. Không quân VNCH bắn cháy 15 xe tăng, nhưng do thiếu viện binh nên phải rút về lập phòng tuyến tại phi trường Sông Bé.
Cùng ngày 31/12, một trung đoàn cộng sản với pháo binh yểm trợ tấn công núi Bà Rá, VNCH phải rút về phòng thủ Phước Long.
Ngày 1/1/1975, sau cuộc tấn công vào phi trường, lực lượng phòng thủ đã bắn cháy bốn xe tăng, giết và bắt sống được trên 50 bộ đội.
Bên tấn công kéo đại pháo 130 ly lên núi Ba Rá bắn trực xạ vào hệ thống phòng thủ tiểu khu phá hủy 8 khẩu đại bác 105 ly và 4 khẩu 155 ly, rồi liên tục trực xạ vào thị xã có ngày lên đến 3.000 trái pháo.
Súng phòng không đặt trên núi Ba Rá kiểm soát hoàn toàn không phận Phước Long.
Ngày 3/1, CS tăng cường tấn công, tuyến phòng thủ VNCH thu hẹp chỉ còn khu hành chánh tỉnh và phi trường.
Sáng 4/1, Hai Biệt Đội Biệt Kích 811 và 814, với chừng 250 biệt kích 81 và quân y vào tiếp cứu Phước Long, bị pháo và tăng tấn công ngay từ phút ban đầu.
Theo Charlie, Biệt kích 81 với các toán cảm tử quân ba người một đã chạy ra đường phố để đánh xe tăng.
Sỹ quan quân y, Đàm Hữu Phước, thuộc Biệt kích 81, kể lại chỉ ngày đầu đơn vị phải quần thảo với xe tăng và đặc công tới hai lần, M72 bắn gần hết, thuốc men của quân y chẳng còn là bao so với nhu cầu.
Hầm quân y chật cứng thương binh, chỉ khâu dùng hết phải dùng dây điện thoại để may tạm cầm máu vết thương và dùng penicilline để tránh nhiễm trùng.
Nhiều đợt pháo kích trực xạ vào bộ chỉ huy tiểu khu làm trung tá tiểu khu phó bị tử thương, còn trung tá chi khu trưởng Phước Bình bị thương nặng.
Trung tâm Hành quân đã gọi bốn chiếc F-5 ném bom trực tiếp vào xe tăng.
Tướng Bế Ích Quân, chỉ huy trung đoàn tấn công hôm 4/1, cho biết trận chiến rất khốc liệt khi ông liên lạc với Đại đội 7, 36 người theo xe tăng vào Phước Long chỉ còn 8 người.
Charlie Nguyễn Hoàng Oanh cho biết Đơn vị tình báo 101 do Đại úy Thường chỉ huy tìm ra địa điểm đóng quân của Bộ Chỉ huy Quân đoàn 4 và báo cho máy bay F-5 tới thả bom trúng đích.
Đại úy Thường bị bắt và bị 18 năm, 8 tháng, 8 ngày tù cải tạo. Khi thả về đầu bạc phơ, răng rụng hết.
Đến cuối ngày 4/1, Bộ chỉ huy biệt cách dù báo cáo về Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 tình hình trận chiến vô cùng nguy kịch không thể cứu vãn được và xin lệnh rút quân.
Biệt đội Biệt kích 811 lập hàng rào bảo vệ dinh tỉnh trưởng và tòa hành chánh. Đêm 4/1, hơn 1.000 trái pháo rót vào khu vực này.
Đến sáng ngày 5/1, Đại tá Nguyễn Thống Thành trúng đạn pháo cối chết.
Trong ngày, pháo kích và tấn công của đối phương tiếp tục khi phía VNCH chống trả đã gần hết đạn.
Tối ngày 5/1, Trung tá Vũ Xuân Thông, Bộ Chỉ huy BK 81 ra lệnh rút quân.
Sáng 6/1, pháo binh và xe tăng lại mở trận tấn công, giao tranh suốt ngày nên phải đến 23 giờ đêm 6/1, hai biệt đội BK 81 mới rời khỏi Phước Long.
Biệt Đội 814 do Đại úy Lê Đắc Lực chỉ huy chỉ mất hai người, còn Biệt đội 811 do Đại Úy Trương Việt Lâm thiệt hại nặng có thể tới 100 người, vừa tử trận vừa bị bắt.
CS pháo kích vào đoàn người rút khỏi Phước Long, nhiều người chết và bị thương.
Hơn 1.000 quân nhân, cảnh sát rút về được về vùng VNCH kiểm soát, nhưng để lại chừng 3.000 người tử thương hay bị bắt đưa ra Bắc.
Phía tấn công cũng thiệt hại rất nặng, số thương vong cao, nhiều đại đội chỉ còn vài người, nhiều pháo, phòng không bị máy bay oanh kích và gần 20 xe tăng bị loại khỏi vòng chiến.
Sau trận Phước Long
Hoa Kỳ đã không có bất kỳ hành động nào chống lại việc Bắc Việt đánh chiếm tỉnh Phước Long.
Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến Paris hoàn toàn bất lực.
Nhân đó, Hà Nội nắm thời cơ ra quyết định mở cuộc tổng tấn công, miền Nam hoàn toàn sụp đổ.
Ngày 30/4/1975, bốn tướng Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam và Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn tuẩn tiết.
Họ và nhiều chiến sỹ vô danh VNCH ngày nay vẫn được không ít dân miền Nam và người Việt ở hải ngoại hàng năm tưởng nhớ.
Sỹ quan VNCH Charlie Nguyễn Hoàng Oanh đã bị bắt và bị giải ra miền Bắc.
Ông kể lại câu chuyện đáng suy ngẫm xin lấy làm kết luận bài viết này:
\”Đoàn tù binh đi diễn hành qua phố Khâm Thiên, những dây xích sắt khua vang trên mặt đường Hà Nội, dân chúng hai bên đường đứng coi đông đảo.
Bỗng có hai người thương phế binh ở Hà Nội cụt hai chân trên chiếc xe lăn, chặn ngang đoàn tù binh và nói: \”Người ta cũng là người Việt, tại sao các anh làm trò hề vậy\”.
Trưởng Trại giam Lộc Ninh là Tám Quý liền rút súng ra nói: \”Mày không tránh ra là tao bắn\”.
Hai người thương phế binh trả lời:
\”Ông có dám bắn thì bắn thử coi\”.
Tám Quý hội kiến với cấp trên cho thả dây xích ra.
Dân chúng đứng hai bên đường vỗ tay hoan hô, xích sắt được tháo ra trên đường phố Hà Nội.\”