Cần phải đáp trả thẳng thừng sự bành trướng của Trung cộng
Tác Giả: Nguyễn Trọng Dân -03/03/2019
Lời người lược dịch: MacConaghy là Trung úy Tình-báo Hải-quân làm việc ngay tại văn phòng bộ Tư-lệnh Hải quân trực thuộc bộ Quốc Phòng (QP) của Hoa Kỳ. Dù rằng bộ QP và Hải-quân Hoa Kỳ khẳng định bài viết chỉ thể hiện quan điểm riêng của vị sĩ quan tình báo này, nhưng trên thực tế, bài viết này lại tóm lược một cách khái quát nhưng rõ ràng toàn bộ những chính sách về biển Đông mà Hải Quân và bộ QP Hoa Kỳ sẽ tiến hành về sau này. Mọi người phải ngầm hiểu vị sĩ quan trẻ này đang giữ trọng trách mà mọi bài viết của ông về chiến lược quân sự trước khi được cho đăng trên các tạp chí điều phải có sự đồng ý của thượng cấp để đảm bảo tin tức tối mật không bị tiết lộ vì sơ ý hay cố tình.
Thông qua bài viết này của Trung úy MacConaghy, chúng ta sẽ thấy được quyết tâm của Hoa Kỳ trang bị hỏa tiển cho các nước trong vùng để khống chế sức mạnh Hải quân của Trung cộng. Đương nhiên, hơn phân nữa số hỏa tiển của Hoa Kỳ trang bị trong vùng ở tương lai sẽ nằm tại Việt Nam vì vị thế thuận tiện của Việt Nam trong việc bảo vệ quần đảo Trường Sa. Vì vậy, bài dịch này chính là bài thứ nhì nối tiếp bài viết “Bàn sơ lược về viễn cảnh Hoa Kỳ đặt hỏa tiễn tại Việt Nam” được Đàn Chim Việt cho đăng trước đây.
Và cũng vì những dự tính quân sự của Hoa Kỳ sắp tới đây tại biển Đông mà tình hình chính trị Việt Nam, nội bộ nhân sự của Cộng sản Việt Nam sẽ có những biến động rất bất ngờ.
Cũng từ những chính sách quân sự của Hoa Kỳ, chúng ta sẽ thấy rõ liên minh quân sự Việt cộng – Hoa Kỳ sẽ được hình thành và Hoa Kỳ sẽ tập trung toàn lực bảo vệ miền Nam Việt Nam khỏi hỏa lực của Trung cộng khi cần thiết.
Hiện Hoa Kỳ đã hiện diện quân sự tại miền Nam Việt Nam bán chính thức nhưng thường trực ở Đà Nẵng, Cam Ranh và Biên Hòa .
Ẩn số của chính sách quân sự này là số phận của miền Bắc sẽ ra sao? Bầu trời miền Bắc sẽ gánh chịu hỏa lực kinh khiếp của Trung cộng khi chiến tranh xảy ra nếu Hoa Kỳ không chịu hiện diện quân sự tại miền Bắc thường trực như đang hiện diện tại miền Nam Việt Nam.
Từng bước từng bước, chúng tôi sẽ cố gắng giải bày nhiều bí ẩn về nền chính trị Việt Nam, nhiều bí ẩn về các chính sách của Hoa Kỳ để mọi người thấy rõ, sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa là tất yếu. Tuy nhiên, người dân miền Bắc muốn thoát nạn hứng chịu hỏa lực của Trung cộng thì phải nhanh chóng đấu tranh để dựng lại Việt Nam Cộng Hòa cùng với người dân miền Nam, buộc Hoa Kỳ phải ra tay bảo vệ toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thoát khỏi hỏa lực kinh khiếp của Trung cộng, không chỉ ở miền Nam mà cả luôn miền Bắc!
Chiến lược của Hoa Kỳ ở Biển Đông đang thất bại. Chính sách ươn hèn và không cương quyết đã cho phép Bắc Kinh kiểm soát gần như hoàn toàn khu vực Biển Đông mà không cần tốn một viên đạn. Khi Trung cộng nạo vét cát từ đại dương và tuyên bố chủ quyền 3200 héc-ta lãnh hải, Hoa Kỳ đã đưa ra những tuyên bố rụt rè. Khi Bắc Kinh biến các đảo san hô thành các tiền đồn quân sự hoàn chỉnh với đường băng, giao thông hào và hầm trú ẩn tên lửa, Hải quân Hoa Kỳ chỉ cho tiến hành các Hoạt động Tự do Hàng hải (FONOPs) rời rạc với một vài tàu chiến đến gần nơi này. Khi Trung cộng triển khai các thiết bị gây nhiễu điện tử, hỏa tiển đất đối không và chống hạm, Hoa Kỳ chỉ trừng phạt bằng cách loại bỏ chế độ cộng sản này ra khỏi cuộc tập trận Hải quân Hổn hợp (RIMPAC 2018) . Những hành động mang tính biểu tượng hình thức của Hoa Thịnh Đốn đã không làm được gì để ngăn chặn sự bành trướng của Bắc Kinh.
Hoa Kỳ và quân đội của chúng ta đã tìm đủ cách né tranh đối mặt (với Trung cộng)! (1)
Trong khi Quốc Hội đã tăng ngân sách để đóng tàu chiến mới hiện đại, cho chế nhiều vũ khí mới và tăng quân số Hải quân, chiến lược của chúng ta vẫn hèn nhát không thay đổi! Mặc dù quân đội bây giờ có nhiều ngân sách hơn, nhưng quân đội này vẫn để cho Trung cộng với lực lượng Hải quân chưa từng trải qua trận mạc ngày nào ngang dọc khắp Biển Đông như chổ không người. Đô đốc Davidson, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương, tuyên bố hồi tháng Tư, Trung cộng hiện có khả năng kiểm soát Biển Đông, đối đầu chiến tranh với Hoa Kỳ ở mọi tình huống. Trong khi lời tuyên bố này là một thực tiển đáng buồn trước các cuộc chạm trán giữa các tàu tuần tra, thì hiện nay lại đang dấy lên nghi ngờ rằng Hoa Kỳ không thể thắng trong một cuộc xung đột lớn ở Biển Đông.
Thay vì tiếp tục nhịn nhục, Hải quân (Hoa Kỳ) nên gia tăng nỗ lực làm cho việc bành trướng của Trung cộng thêm khó khăn bằng cách quay lại chiến thuật đã được chứng minh là hữu hiệu trong trận chiến nhiều thập kỷ trước: treo cờ Mỹ trên các tàu buôn nước ngoài, cung cấp hộ tống đoàn tàu, mở rộng vùng đảo kiểm soát của đồng minh và triển khai hỏa tiển không đối không, và không đối hải thường trực tới các tiền đồn tại địa phương của các nước trong vùng. Chúng ta cần phải theo đuổi các chiến lược đột phá để hỗ trợ cho đồng minh và khiến cho Trung Cộng chùn bước.
Biển Đông không chỉ là một hành lang kinh tế thiết yếu mà còn là một chiến trường quân sự quan trọng.
Gần hai phần ba tổng số thương mại chuyên chở hàng hải toàn cầu 3,37 ngàn tỷ Mỹ kim qua vùng biển này. Mười hai phần trăm sản lượng thủy sản trên thế giới là đánh cá được từ vùng biển này. Năm quốc gia khác, Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Brunei và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền một số hay toàn bộ quần đảo Trường Sa tại vùng biển này, nhưng không có quốc gia nào có thể đủ sức ngăn cản Trung cộng. Trong năm năm qua, Trung cộng đã biến những nơi mà lúc đầu chỉ là những đảo san hô chài lưới nhỏ xíu, thành căn cứ Hải quân quân sự kiên cố. Những căn cứ này là biểu hiện cụ thể sức mạnh bành trướng của Trung cộng. Việc quân sự hóa các đảo này đã giúp cho Bắc Kinh có bàn đạp để từ đó mà mở rộng phạm vi kiểm soát của mình ra Ấn Độ Dương và tây Thái Bình Dương. Nếu Hoa Kỳ không đẩy lùi Trung cộng ngay bây giờ tại Biển Đông, thì trong mười năm nữa, các tàu ngầm Trung cộng sẽ tuần tra ra bên ngoài vùng biển San Diego (thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ), và các hàng không mẫu hạm của Trung cộng sẽ cho bay các chiến đấu cơ ở bờ biển Honolulu (thuộc tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ). Kiểm soát Biển Đông là chìa khóa cốt lõi để duy trì vị thế siêu cường của chúng ta (Hoa Kỳ) ở phía tây Thái Bình Dương cũng như là trên toàn cõi Châu Á. Chỉ có cách đối đầu dứt khoát với Trung cộng, giúp các đồng minh khẳng định chủ quyền lãnh hải và đặt Hoa Kỳ vào vị thế sẵn sàng giúp đồng minh bảo vệ lãnh thổ mới có thể ngăn chặn nổi mộng và sức mạnh bành trướng của Trung cộng.
Vào năm 2016, toà án biển đảo quốc tế PCA đã ra phán quyết Trung cộng không có chủ quyền tại các đảo thuộc chủ quyền của Phi. Tuy nhiên, Rodrigo Duterte, người được đắc cử Tổng thống, đã buộc phải bỏ qua phán quyết của tòa án trước sự đe dọa quân sự trực tiếp của Trung cộng và đổi lại, chấp nhận những lời hứa hẹn đầu tư kinh tế của Bắc Kinh. Kể từ đó, Tổng thống Duterte đã hợp tác với họ Tập và công kích Hoa Kỳ công khai. Trong nỗ lực thu hút đầu tư từ Trung cộng, Duterte còn đang tính đến việc củng Bắc Kinh liên doanh khai thác trữ lượng khí đốt trong vùng biển tranh chấp.
So với Phi, Việt Nam có quân đội mạnh hơn nhiều, nhưng cũng phải oằn mình quy phục sức ép quân sự của Trung cộng.
Ba lần trong bốn năm qua, Trung cộng đã ra mặt hăm dọa sẽ tấn công thẳng vào các đảo của Việt Nam.
Vào tháng 5 năm 2014, Trung cộng đã cho đông đảo các tàu đánh cá dàn ra làm lực lượng bảo vệ xung quanh một tàu thăm dò dầu khí của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ) gần quần đảo Hoàng Sa.
Khi Hà Nội cố gắng khẳng định chủ quyền của mình, một báo cáo của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã ghi nhận, tàu bán quân sự Trung cộng đã đâm và sử dụng vòi rồng để răn đe tàu chiến Việt Nam.
Năm 2017, Trung cộng một lần nữa sử dụng lực lượng tàu đánh cá này để gây áp lực buộc Việt Nam từ bỏ hoạt động khai thác dầu gần quần đảo Trường Sa.
Không những vậy, lần này, Trung cộng còn đe dọa mạnh tay hơn. Theo BBC, các quan chức Việt Nam nói với công ty khoan dầu rằng Trung cộng ra mặt đe dọa tấn công thẳng vào các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu việc khai thác không dừng lại.
Hà Nội phải cuối đầu nhịn nhục, và một dự án khai thác khác đã bị hủy bỏ vào tháng Ba. Lần này, Bắc Kinh không thèm đe dọa lòng vòng trong lời nói. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Bộ trưởng bộ Quốc phòng, đại tướng Ngô Xuân Lịch, khẳng định kế hoạch khai thác phải hủy bỏ để tránh chiến tranh toàn diện với Trung cộng.
Hoa Kỳ có thể và cần nên can dự nhiều hơn nữa.
Hoa Kỳ đã có tiền lệ bảo vệ các quốc gia nhỏ yếu khỏi bị bắt nạt bởi các quốc gia lớn trong tranh chấp hàng hải.
Năm 1987, trong sự kiện “Chiến tranh Tàu Chở Dầu”, để bảo vệ tàu các nước trong vùng khỏi các cuộc tấn công của Iran, chính quyền Reagan đã cho treo cờ Mỹ lên 11 tàu chở dầu Ku-wai và sử dụng đủ loại tàu chiến từ tàu khu trục, tàu tuần dương để hộ tống tất cả mọi tàu bè khi đi ngang Vịnh Ả Rập. Hải quân Hoa Kỳ nên tiếp tục vai trò của mình giống như 30 năm trước. Treo cờ Mỹ lên các giàn khoan thăm dò và sử dụng tàu tuần dương và tàu khu trục để bảo vệ.
Phải buộc Trung cộng đối đầu với tàu chiến 10.000 tấn của chúng ta, chứ không phải đối đầu với tàu tuần tra của Việt Nam chỉ có 500 tấn mà thôi.
Treo cờ Mỹ lên các tàu , các dàn khoan và dùng Hải quân hộ tống các tàu qua lại thành công vào năm 1987 thì cũng sẽ thành công năm 2018 . Các cuộc tấn công của Iran chống lại tàu ở Vịnh Ả Rập đã giảm từ 89 vụ năm 1987 xuống còn 3 vụ vào năm 1988. Trong cùng thời gian, các cuộc tấn công chống lại tàu Kuwait đã từ 4 vụ năm 1987 trở thành không vụ nào vào năm 1988. Can thiệp của Hoa Kỳ đã giúp đồng minh đoàn kết lại, tạo ra một quyết tâm góp sức chung vai từ khắp các quốc gia Tây Âu và các quốc gia trong vùng Vịnh.
Tình hình ở Biển Đông không thảm khốc như ở vùng Vịnh, không có sinh mạng nào bị mất gần đây trong cuộc tranh chấp quần đảo Trường Sa, nhưng bản chất vấn đề đều giống nhau. Chính quyền Reagan từ chối nhường lại lợi thế chiến lược cho Iran. Chính quyền Trump phải có những hành động táo bạo tương tự mà Hoa Kỳ đã thực hiện 30 năm về trước. Giống như quyết định của Reagan, đã buộc Iran từ bỏ các cuộc tấn công vào các tàu Kuwaiti, một chiến lược táo bạo treo cờ Mỹ cho các tàu qua lại trong vùng và duy trì sự hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ sẽ khiến Bắc Kinh từ bỏ chiến thuật khống chế vùng biển này.
Bên cạnh việc bảo vệ các giàn khoan, Việt Nam, Malaysia và Philippines cũng cần trợ lực để xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự cần thiết với các đồn bót, đường băng và mạng lưới thông tin liên lạc để chống đỡ. Trong số các đối thủ của Trung cộng tại Trường Sa, Việt Nam là quốc gia đã cũng cố hệ thống phòng thủ của mình nhanh nhất. Kể từ năm 2014, Việt Nam đã thu hồi khoảng 120 mẫu Anh trên 10 đảo nhỏ, mở rộng đường băng và thêm hệ thống radar để có thể duy trì quan sát vùng biển. Tuy nhiên, những nỗ lực này của Việt Nam cũng không thể cản ngăn được Trung cộng. Hoa Kỳ có thể cần cung cấp hỗ trợ hậu cần và hỗ trợ tài chính cho tất cả các đối tác của mình trong vùng như Việt Nam, Malaysia và Philippines có thể cũng cố đảo và thiết lập tiền đồn thể bảo vệ lãnh thổ.
Việc mở rộng cũng cố phòng thủ các đảo tuy sẽ giúp ích, nhưng Hoa Kỳ cũng nên thực hiện bước thứ hai, đó là triển khai ráp đặt các dàn hỏa tiển đất đối không và chống hạm cho các đồng minh của mình trong vùng (3). Việc bố trí các hệ thống hỏa tiễn này sẽ khiến tàu chiến và máy bay chiến đấu của Trung cộng bị đe dọa trực tiếp, giống như các hệ thống hỏa tiển của Bắc Kinh đặ trên các Rạn san hô Mischief, Subi và Fiery đang de dọa chúng ta (Hoa Kỳ).
Quân đội chúng ta (Hoa Kỳ) có hệ thống hỏa tiển đất đối không, Patriot, nhưng lại chưa được trang bị hỏa tiển phòng thủ bờ biển địa đối hải (CDCM). Đây là một điểm yếu chết người. Hoa Kỳ cần trang bị các hệ thống hỏa tiển địa đối hải CDCM này để chống sức mạnh Hải quân Trung cộng thêm hiệu quả vì hệ thống hỏa tiển này sẽ tiêu diệt mọi tàu bè trong tầm ngắm từ đất liền. Cuộc thử nghiệm gần đây của Bộ binh về hỏa tiển địa đối hải từ phía sau xe tải trong cuộc tập trận RIMPAC là bước tiến đầu tiên quan trọng, nhưng nay, Bộ binh cần phải được trang bị loại hỏa tiển này. Trong Thế chiến II, Bộ binh là lực lượng trong các chiến dịch đổ bộ nhảy đảo của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Bảy mươi lăm năm sau, Hoa Kỳ có nguy cơ bước vào một cuộc chiến địa hải nhảy đảo như trước đó mà không có sức mạnh hỏa lực từ đất liền tung ra biển. Bằng cách tiến hành triển khai thường trực các hệ thống hỏa tiển Patriot và các hệ thống hỏa tiển địa đối hải CDCM (hiện chưa được trang bị), Hoa Kỳ sẽ thể hiện quyết tâm của mình đối với khu vực và cũng cố vị thế lãnh đạo trong việc bảo vệ lãnh thổ các nước đồng minh trong vùng.
Một số nhà phê bình có thể sẽ cho rằng lựa chọn đáp trả cứng rắn quá rủi ro và có thể leo thang thành một cuộc xung đột lớn nhanh chóng. Tuy nhiên ngược lại, thái độ đáp trả cứng rắn ngay từ đầu sẽ khiến tình hình trở nên ổn định hơn, tạo ra một lực lượng liên minh Hải quân đông đảo và đoàn kết!
Hiện nay, tương tự như Lực lượng đặc nhiệm kết hợp 150 (CTF-150) ở Vịnh Aden, lực lượng đặc nhiệm Thái Bình Dương sẽ đảm bảo an toàn cho hải lộ Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Nhưng chắc chắn, dự tính chiến lược này sẽ thất bại vì hai lý do. Trước hết, Hải quân Hoa Kỳ vì chiến lược này mà bị dàn trải quá mỏng trong thời gian dài. Lực lượng này có thể thực hiện các nỗ lực tập trung như tập trận MALABAR (một cuộc tập trận chung ở Biển Philippines trong một tháng) hoặc cung cấp hộ tống cho các tàu khoan, nhưng lại không thể tuần tra vùng biển trong thời gian dài. Chúng ta cần rất nhiều các tàu khu trục điều phối bảo vệ cho các nhóm hàng không mẫu hạm tiên phuông tấn công hoặc phải đảm trách nhiệm vụ phòng thủ chống lại hỏa tiển điều khiển từ xa. Điều này dẫn đến không có đủ tàu để hiện diện ở Thái Bình Dương một cách thường trực. Kế đến và quan trọng hơn, ngay cả khi Hải quân điều tàu chiến cho nổ lực tuần tiễu bảo vệ tư do hàng hải, tiến sát đến các đảo nhân tạo cũng chẳng sẽ làm Trung cộng chùn bước. Cũng giống như cách Bắc Kinh phớt lờ áp lực của chúng ta từ chiến lược FONOP của Hoa Kỳ, họ sẽ lì đòn coi các vụ tuần tiễu chẳng ra gì. Năm chiến hạm đa quốc gia cũng như hai tàu Mỹ đi tuần tiễu cũng chẳng làm cho Bắc Kinh lo sợ.
Trung Cộng chắc chắn sẽ chỉ trích chúng ta về việc triển khai vũ khí thuờng trực tại khu vực, tăng cường sức mạnh quốc phòng cho các nước trong khu vực và hộ tống các tàu bè qua lại vùng này. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải nhấn mạnh rằng những hành động này cũng chỉ là có tính phòng thủ.
Cần phải “ăn miếng trả miếng” với Bắc Kinh. Khi Bắc Kinh lần đầu tiên triển khai hỏa tiển đến các đảo nhân tạo của họ, Bộ Quốc phòng của họ đã (gian xảo) tuyên bố: ” Chúng tôi triển khai các cơ sở quân sự trong vùng là cần thiết, là chỉ để phòng thủ và tự vệ, và đó là điều hợp lý và hợp pháp. Chẳng hạn, nếu có ai đó ở trước cửa nhà bạn, vênh váo và phá rối, làm sao mà bạn lại không cầm sẵn súng để đề phòng tự vệ.” Nếu nói như vậy thì việc triển khai hỏa tiển và hộ tống tàu bè qua lại cũng là để Hoa Kỳ đề phòng tự vệ . Trung cộng cho rằng động thái của họ là chỉ để phòng thủ. Hoa Kỳ cũng nên tuyên bố như vậy.
Liên minh chặt chẻ hơn đối với các nước trong vùng và hiện diện quân sự một cách mạnh mẽ thuờng trực bảo đảm sẽ ngăn chặn (thành công)sự bành trướng của Bắc Kinh (2). Phương thức ứng phó hiện tại không hiệu quả và cần phải (nhanh chóng) từ bỏ. Nếu Hoa Kỳ không cương quyết dằn mặt Trung cộng và nắm lấy vai trò lãnh đạo, Trung cộng sẽ có một chuổi các các căn cứ quân sự trên đảo với hỏa lực mạnh kéo dài từ Philippines đến Việt Nam, đủ khả năng bung sức mạnh quân sự của mình vượt ra ngoài Biển Đông.
Quần đảo Trường Sa chưa bị mất (4), nhưng sớm hay muộn cũng bị mất nếu Hoa Kỳ không hướng tới sự hiện diện quân sự công khai thuờng trực hơn. Đã đến lúc(Hoa Kỳ) phải tung ra đối sách cứng rắn táo bạo và thắt chặt các quan hệ đối tác, sử dụng ưu thế quân sự và sức mạnh kinh tế để đẩy lùi tham vọng của Trung cộng.
Pierce MacConaghy
Nguyễn Trọng Dân lược dịch
Ghi chú của người lược dịch:
1. Đây chỉ là khổ nhục kế của Hoa Kỳ nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chiến lược sâu xa kéo dài cả trăm năm.
2. Điều này có nghĩa là sẽ có liên minh quân sự Việt cộng- Hoa Kỳ trong tương lai – nghĩa là ẩn ý “Mỹ vẫn bảo kê Việt cộng”
3. Xin đọc lại bài “Bàn sơ lược về viễn cảnh Hoa Kỳ đặt hỏa tiễn tại Việt Nam” đăng trên đàn Chim Việt để hiểu rõ thêm.
4. Trung Úy MacConaghy không nhắc gì đến Hoàng Sa mặc dù tàu chiến Hoa Kỳ và Đông Minh liên tục áp sát đảo Hoàng Sa trong tám tháng qua cho thấy giới quân sự Hoa Kỳ hiện đang muốn ém nhẹm bí ẩn về tầm quan trọng của Hoàng Sa trong chiến lược quân sự và chính trị của họ tại biển Đông. Đơn giản là vì hồ sơ Hoàng Sa liên hệ trực tiếp đến sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa trên bàn hội nghị trong tương lai giữa các siêu cường về biển Đông.