Chuly sưu tầm
Đi Thăm Nước Mỹ
Tác Giả: Nguyễn Thị Thanh Dương
Ông Sĩ ngồi ở bàn, bên ấm chè nóng, ông đang tra thuốc vào chiếc điếu và châm lửa hít một hơi, xong khoan khoái ngửa mặt ra thả một làn khói bay mù mịt.
Bà Sĩ ngồi dưới đất, cạnh bàn, đang lo gói ghém lại các món quà trước khi bỏ vào túi xách cho chồng. Bà hài lòng khoe:
– Toàn là cây nhà lá vườn ông nhá, long nhãn khô, măng khô, bột sắn giây, tự tay tôi làm cả…
Những thức này nghe nói ở bên Mỹ quý hiếm lắm, tìm không có, đào không ra đâu… Ông Sĩ ra vẻ hiểu biết:
– Thiếu giống gì, hàng của ta xuất khẩu sang Mỹ nhiều lắm, đến củ giềng ăn thịt chó cũng có nữa là. Để sang Mỹ tôi sẽ ăn thịt chó Mỹ xem có béo không? Chó tư bản nhà giàu mà. Ông Sĩ hớp một ngụm chè để vài giây cho thấm thía mới gật gù:
– Chè mộc Thái Nguyên ngon thật. Bà có mua chè này mang sang Mỹ làm quà không, hử ?
– Sao không chứ. Những gì ông dặn tôi mua tất…. Bà Sĩ đứng lên, phủi bụi quần và ân cần bảo chồng:
– Xong hết cả rồi, ông đi ngủ sớm mai còn ra phi trường Nội Bài, mai tôi cũng dậy sớm nấu cho ông nắm cơm nếp ăn đi đường.
– Gớm, bà cứ làm như ngày xưa lúc tiễn tôi lên đường trở về đơn vị sau lần tôi hiếm hoi về phép thăm nhà không bằng. Nhưng mà đi xuất cảnh sang Mỹ ai lại mang món cơm nếp nhà quê này chứ ? Bà Sĩ âu yếm gắt:
– Ăn cho nó chắc bụng, không gì bằng cơm nhà quà vợ. Ông đừng có mà sĩ diện. Suốt mấy ngày nay, biết tin ông Sĩ sắp đi Mỹ du lịch, họ hàng, làng xóm đã thăm hỏi, chúc mừng không ngớt và nội bộ nhà ông cũng bận rộn tíu tít, lo sửa soạn hành lý và …tâm lý không ngớt. Đời cứ như là mơ, ông Tượng, người em của ông Sĩ di cư vào Nam từ năm 1954 và di tản sang Mỹ năm 1975 đã mời ông Sĩ chuyến đi du lịch này. Ngày di cư ấy bố ông đã dẫn thằng em 12 tuổi vào Nam trước, ông Sĩ ở nhà với mẹ, sẽ vào Nam sau. Nhưng chuyến đi Nam ấy không thực hiện được, gây ra cảnh chia lìa một gia đình 4 người mà nửa Nam nửa Bắc. Ông Tượng quyết không bao giờ trở về Việt Nam nếu đất nước còn chế độ cộng sản, ông chỉ liên hệ với người anh duy nhất của mình qua thư từ hay điện thoại và thỉnh thoảng gởi tiền về giúp anh chị. Ông Tượng mời anh sang Mỹ chơi, coi như một món quà hào hiệp tặng anh, trước là thăm thân nhân sau là đi cho biết đó biết đây. Hai anh em hai lý tưởng khác nhau, ông Sĩ đi bộ đội miền Bắc suốt một thời tuổi trẻ để giải phóng miền Nam cho đến khi đúng tuổi giải ngũ. Ông Tượng là lính miền Nam , chiến đấu chống lại quân đội Bắc Việt. Sau chiến tranh hai anh em đều sống sót, nhà ông may mắn thế, nhưng biết đâu có những nhà khác, anh em, cha con hay chú cháu đã đối diện nhau nơi chiến trường, xả súng vào nhau để giành phần chiến thắng mà nào hay tình máu mủ liên hệ… Cha mẹ đều lần lượt qua đời mà chẳng thấy mặt nhau sau lần chia ly vì thời cuộc ấy, chỉ còn hai anh em nên ông Sĩ háo hức muốn gặp lại thằng Tượng em ruột của mình lắm.. Ngày xưa bố ông rất mê chơi cờ tướng, nên đặt tên các con theo từng quân cờ, người anh cả mang tên Nguyễn vănTướng qua đời khi lên 3 tuổi vì một cơn bạo bệnh, người con thứ hai là ông Sĩ và người kế tiếp là Tượng thì mẹ ông phát bệnh gì đó mà không thể sinh đẻ được nữa, nếu không thì anh em ông còn …kéo dài thêm mấy quân cờ nữa như Xe, Pháo Mã, Tốt, vì thuở ấy nhà nào cũng bảy, tám đứa con là chuyện thường. Ông Sĩ cũng háo hức muốn biết mặt mũi nước Mỹ nó ra làm sao mà ghê gớm thế, có thể làm ảnh hưởng cả thế giới và một thời đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam để miền Bắc của ông phải vất vả, bao nhiêu thanh niên nam nữ lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự và bao nhiêu người đã gởi thây nơi rừng núi chiến trường miền Nam, mất xác, mất tăm tích cho đến tận bây giờ. Tất cả chi phí chuyến du lịch qua Mỹ dĩ nhiên đều do người em lo. Nhà nghèo xác nghèo xơ, chuyện đi Tây đi Mỹ du lịch là một giấc mơ vĩ đại cả đời ông không dám nghĩ tới, thì bây giờ cơ hội trong bàn tay dại gì ông từ chối.
Sáng hôm sau ông Sĩ thức dậy sớm, nhưng bà đã dậy sớm hơn ông từ lúc nào, cơm nếp nấu xong bà gói trong lá chuối, với một gói muối vừng để tiện mở ra ăn. Đám con cháu cũng lần lượt đến tiễn ông Sĩ lên đường. Thằng con trai cả sẽ làm nhiệm vụ chở bố ra phi trường Nội Bài. Từ quê ông ra Hà Nội mất gần 1 tiếng, từ Hà Nội ra phi trường Nội Bài mất thêm khoảng 40 phút nữa. Hai bố con đến phi trường Nội Bài, bố con dặn dò nhau xong thì ông Sĩ bước vào trong, ông hoa mắt vì lần đầu tiên trong đời mới được biết phi trường là gì. Ông cầm cuốn hộ chiếu chìa ra để trình bày và hỏi thăm, người ta chỉ cho ông chỗ xét gởi hành lý trước.. Cô hải quan đanh đá thô bạo đưa tay bới túi hành lý, cô định mở từng bọc một thì ông Sĩ biết điều móc túi ra, ông tần ngần suy nghĩ, nó trông phong lưu và đẹp người thế, trong khung cảnh phi trường hoành tráng thế, mà đưa tiền ít chắc không xứng đáng lại thêm rắc rối? Ông đành lấy ra 5 trăm ngàn đồng Việt Nam dúi vào tay cô, kẻo cô mở tung toé ra thì giờ đâu ông xếp lại cho được :
– Chẳng có gì đâu, ít thực phẩm khô làm quà thôi mà… Nhận được tiền, cô hải quan dịu dàng, tươi tỉnh ngay:
– Thế mà bác không nói cho cháu biết trước. Thôi, bác yên chí, hành lý này sẽ chuyển lên chuyến bay với bác. Kinh nghiệm lo xa của ông thật hữu ích, ông đã bảo bà để một số tiền mặt cho ông “đi đường”, hễ có giao thiệp với bất cứ nhân viên cấp nào, ngành nghề nào phải có tiền mới giải quyết được sự việc. Tiền có sức mạnh ghê gớm, tiền cất tiếng nói thay người. Xong việc ký gởi hành lý, ông Sĩ thảnh thơi ôm cái xách tay và lại hỏi thăm chỗ đăng ký lên máy bay, lại hết chỗ nọ đến chỗ kia, cuối cùng ông đã tìm ra đúng chỗ, ông đang ngơ ngác chưa biết phải làm gì thì bị anh hải quan ngồi sau chiếc bàn dài, mặt non choẹt, quát xa xả :
– Ông kia, đưa giấy tờ đây, làm mất cả thì giờ của người khác. ! !
– Vâng ạ, có hộ chiếu xuất cảnh đầy đủ đây ạ…người xuất cảnh là tôi Nguyễn Văn Sĩ, sinh năm.… Anh Hải Quan bực mình ngắt ngang:
– Khi nào cần tôi hỏi, ông không phải khai. Giấy nhập cảnh nữa, xuất khỏi đây ông sẽ đến đâu. Đấy là thủ tục. Ông lại móc túi quần qua hai ba lớp gói, lớp bọc để lôi ra giấy nhập cảnh trân trọng đặt lên mặt quầy cho anh hải quan. Tướng tá sang cả và mặt anh ta lạnh lùng càng làm ông Sĩ cảm thấy mình thấp hèn và hồi hộp như một kẻ đang đợi được ban ơn:
– Thưa anh, thế đủ chưa ạ ? cần gì nữa không ạ? Anh hải quan lại quát:
– Ông ạ, ạ..gì mà lắm thế ? có im đi không cho người ta làm việc. Ông Sĩ im ngay tức khắc, liếc nhìn sang anh hải quan bên cạnh đang “làm việc” với một người nước ngoài, nhã nhặn, lịch sự, ông ngạc nhiên tự hỏi :” Hai anh hải quan này cùng làm một việc, nhưng tính khí khác nhau ? hay chắc tại mình và ông nước ngoài kia khác nhau? mà hai cảnh đối xử một trời một vực thế nhỉ? ” Anh hải quan của ông đã xét giấy tờ xong, anh ta đẩy mạnh mớ giấy tờ về phía ông, suýt nữa thì cuốn sổ hộ chiếu quá đà rơi xuống đất nếu ông Sĩ không nhanh tay đỡ kịp. Anh hải quan không thèm nói một câu, nhưng ông biết là đã xong, vội thu gom giấy tờ của mình bỏ vào bọc, vào túi và bước theo lối có mũi tên chỉ dẫn để ra chỗ cổng vào máy bay, để nhường chỗ cho người khác tiến lên. Tới đây tưởng đã được yên thân, nhưng khi ông cẩn thận và thân ái hỏi một cô mặc đồng phục nhân viên phi trường đang ngược chiều đi đến:
– Có phải lối này ra chỗ máy bay không cháu ? Thay vì trả lời 3 chữ “vâng đúng rồi” để tiết kiệm năng lượng trong người, cô gái tốn công cau có, gắt gỏng bằng một câu dài hơn:
– Có một lối này ông còn hỏi gì nữa…? Ông Sĩ bất chấp lối ăn nói “sinh sự” ấy, vẫn tươi cười và thân ái:
– Thế hả, bác cám ơn cháu. Vừa trả lời ông Sĩ vừa rảo bước thật nhanh, kịp lúc người ta đang gọi loa mời hành khách lên máy bay. Vào trong máy bay gặp các cô tiếp viên Việt Nam, ông Sĩ lại…giật mình vì cảm thấy chưa thoát nạn, nhưng ông tự trấn an : “ Đã ngồi vào trong máy bay là chắc ăn rồi, có bị chúng nó gắt gỏng nữa cũng không thành vấn đề”. Các cô tiếp viên hàng không Việt Nam trông ai cũng sáng sủa, trẻ đẹp và sang cả như mấy người hải quan lúc nãy, ông Sĩ tự kết luận phi trường là chỗ làm việc của những đứa con nhà giàu quyền thế, khác hẳn với mấy đứa cùng trang lứa ở quê ông, mặt mày tối tăm, ngu dốt và đáng thương như miếng thịt ôi trên phản thịt chợ chiều 30 Tết. Các cô tiếp viên hàng không đẹp mà kiêu kỳ xa cách qúa, ông lại tưởng như mình không phải là hành khách trên chuyến bay, mà đang đi nhờ họ thì đúng hơn, nên ông không dám làm phiền, biết thân biết phận ngồi gọn gàng và im thin thít tại chỗ, dù có nhiều thứ lạ, ông muốn cất tiếng hỏi han lắm, nhưng chẳng dại gì mở miệng để bị mắng như lúc nãy hỏi đường cô nhân viên…
Máy bay rời Việt Nam đến phi trường Nhật Bản, ông lại lạc vào mê cung lần nữa, kinh hoàng hơn vì chung quanh không còn nhiều người Việt Nam . Thà bị mắng, bị gắt như ở phi trường Nội Bài còn là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, còn dễ dàng hỏi thăm, đằng này xứ lạ quê người. Nhưng khi ông chìa vé, chìa hộ chiếu ra chẳng biết nói câu tiếng Nhật nào mà cũng được người ta giúp đỡ rất tận tình, dẫn tay ông ra tận chỗ cổng máy bay mà ông cần. Thế là ông nhẹ cả lòng, ngồi tại chỗ quyết không đi đâu xa, sợ lạc mất cái cổng máy bay này. Bây giờ ông Sĩ mới thong thả mở gói cơm nếp của bà vợ ra ăn trong thời gian chờ máy bay mấy tiếng đồng hồ. Từ phi trường Nội Bài gặp các sự sách nhiễu vô lý, ông thấy gói cơm nếp của vợ thật có lý, có tình. Lên chuyến bay ở Nhật, từ Nhật cách Việt Nam chẳng bao xa, mà không khí, con người đã khác nhau xa, nhân viên trên máy bay ân cần giúp đỡ ông tìm ghế ngồi, chỉ cách cài dây an toàn, và giúp ông để túi hành lý vào khoang tàu với nụ cười và nét mặt tươi tắn…
Lần này ông ngồi gần khung cửa sổ và tâm hồn tự tin thanh thản hơn nên tha hồ làm chủ tình hình, ông ngả đầu ra ghế để nhìn ngắm bên ngoài, từ lúc máy bay từ từ lăn bánh, rồi lấy đà cất cánh lên cao dần, thành phố càng lúc càng xa ở phía dưới, ông sợ lắm, nhưng cũng thú vị lắm, không ngờ trong đời mình có lúc được đặt chân vào phi trường để xuất ngoại, được “đi mây về gió” thế này. Các cô tiếp viên Nhật Bản cũng xinh đẹp, lịch lãm, cao sang không thua gì các cô tiếp viên hàng không Việt Nam nhưng họ thật là thân thiện, họ mỉm cười kiên nhẫn nhìn ông ra dấu chỉ trỏ các món thức ăn, nước uống nào mà ông muốn trên suốt chuyến bay dài từ Nhật đến nước Mỹ xa xôi. Bây giờ ông thật sự là một hành khách được phục vụ tận tình và trân trọng. Ông náo nức nghĩ đến nước Mỹ, nghĩ đến thằng em và đám con cháu nhà nó, cũng như họ hàng làng nước mà ông có thể sẽ gặp trong thời gian thăm viếng Mỹ.
Xuống tới phi trường Los Angeles tiểu bang California lúc 12 giờ trưa hôm sau, ông Sĩ thêm một phen choáng váng đến hoang mang, phi trường to lớn và náo nhiệt như cả thế giới, toàn thể nhân loại đều tụ họp ở đây, người ta nói đủ thứ tiếng làm ông nghe mà điếc cả tai. Ông lắng tìm nghe tiếng Việt Nam, nhìn khuôn mặt Việt Nam và đi theo họ cho chắc ăn, ông chỉ có một túi hành lý ký gởi nên hải quan Mỹ làm rất nhanh chóng. Họ hỏi, thì có người hành khách Việt Nam bên cạnh dịch lại cho ông, ông trả lời không mang thực phẩm có thịt, cá . Thế là anh hải quan xét hàng tin ngay, chẳng buồn mở ra kiểm tra ông nói thật hay không. Người Mỹ sao mà dễ tin người thế chứ. Xong ông xếp hàng dài chờ trình giấy tờ nhập cảnh vào Mỹ mà lòng vẫn chưa hết kinh ngạc vì anh hải quan Mỹ xét hàng vừa rồi, ông vui lây và tự hào vì đã được người ta tin tưởng vào lời nói của mình. Người này tử tế bao nhiêu ông lại nghĩ đến người kia bấy nhiêu, nét mặt câng câng đáng ghét của cô hải quan xét hàng hóa ở phi trường Nội Bài khi lục mở túi hành lý của ông, và bộ mặt ấy bỗng biến thành tươi cười hơn hớn khi nhận được tiền ông đút lót. Bây giờ so sánh hai sự khác biệt, ông mới thấy đau đớn vì tiếc tiền, ông lẩm bẩm chửi khẽ:
– Tiên sư con quạ mổ ! Tiên nhân con nặc nô ! làm tao mất toi năm trăm nghìn đồng bạc. Đến lượt ông Sĩ đối diện với ông hải quan Mỹ, ông nộp giấy xuất nhập cảnh ra, nhìn ông hải quan Mỹ to béo kềnh càng, ông Sĩ khiếp vía, ông Mỹ chưa quát tháo gì mà ông Sĩ đã hồi hộp, mồ hôi như rịn cả ra dù trong điều kiện không khí mát lạnh. Xem xong các giấy tờ một cách thành thạo và nhanh chóng, ông hải quan Mỹ nhìn ông Sĩ và nói:
– Welcome to USA . Ông Sĩ chẳng hiểu gì, hồn vía lên mây, vội vàng lục túi áo, túi quần, thì chị Việt Nam đứng cạnh bên ngạc nhiên hỏi:
– Bác tìm gì thế ? Ông ghé tai chị Việt Nam nói nhỏ:
– Chẳng biết ông hải quan Mỹ hạch họe gì, giấy tờ tôi đủ cả, thôi cứ biếu tiền cho xong chuyện. Ở đây họ có tiêu tiền Việt Nam không ? Chị Việt Nam bật cười như vừa bị ai thọc vào nách:
– Bác ơi là bác, ai hoạch họe gì bác, ông hải quan nói lời chào mừng bác vào đất nước Mỹ đấy.
Ông Sĩ ngạc nhiên kêu lên:
– Thế à ? Ai quen biết gì nhà ông ấy mà chào mừng nhỉ …
– Thì họ lịch sự xã giao mà bác. Giây phút này ông Sĩ nhớ ngay đến bộ mặt trơ trơ lạnh lùng và cách ăn nói hỗn hào, trịch thượng của anh hải quan ở phi trường Nội Bài, anh ta là người Việt Nam, đáng tuổi con cháu ông mà cư xử với ông còn thua ông hải quan người Mỹ khác giòng, khác giống này nữa. Chị Việt Nam giục:
– Thôi bác cất giấy tờ kẻo rơi mất và ra ngoài đi, chắc người nhà bác đang đợi bên ngoài đấy… Ông Sĩ hớn hở khóac túi xách lên vai, tay còn lại xách cái túi lớn và đi theo dòng người ra ngoài… Ông đi từ ngơ ngác này đến ngơ ngác kia khi nhìn cảnh và người xung quanh, cho đến khi cả đám thân nhân chạy ùa ra đón ông:
– Anh Sĩ đấy à ? Em là Nguyễn văn Tượng đây…
– Chào bác Sĩ, chúng cháu là con ông Tượng. Ông không thể nào nhận ra thằng Tượng em ông ngày xưa, ông từng cõng nó trên vai dù hai anh em suýt soát tuổi nhau, bây giờ nó bệ vệ hồng hào, khiến ông phải thốt lên:
– Giời ạ, chú Tượng mà tôi cứ tưởng ai, dù nhìn hình rồi mà tôi vẫn không nhận ra chú, trông cứ như tổng giám đốc hay thủ trưởng cơ quan ở thủ đô Hà Nội. Nhưng sao chú vẫn nhận ra tôi, hở ? Ông Tượng thành thật:
– Dĩ nhiên là qua hình anh gởi, nhưng nhìn thấy một ông Bắc kỳ ngơ ngác giữa phi trường Los. này thì không ai ngoài anh. Ông Sĩ vẫn chưa tỉnh cơn mê:
– Người ở đâu mà lắm thế ! cứ ồn ào và nhốn nháo như tôm tươi nhảy trong rổ … Mọi người lên xe hơi để về nhà, vì con cháu ông Tượng ra đón đông nên phải đi làm ba xe làm ông Sĩ thầm thán phục khi biết chúng nó đứa nào cũng có ô tô riêng. Ông chợt nhớ ra vội dặn dò con ông Tượng:
– Này các cháu, chạy xe cẩn thận nhé kẻo xe bốc cháy như ở Việt Nam đấy. Ông Tượng trấn an lại ông anh:
– Anh đừng lo, hiện tượng xe gắn máy và xe hơi bốc cháy chỉ có ở Việt Nam , chắc vì xăng dầu bị pha chế do lòng tham của con người mà ra thôi. Xe hơi chở ông Sĩ từ phi trường Los Angeles đi vù vù qua những con đường, lên đến highway 405 song song là 6 hàng xe làm ông Sĩ không tin vào mắt mình, ông cẩn thận đếm đi đếm lại mấy lần. Trên đầu ông cũng là cầu highway, ông nhìn phía trước, những đường cầu highway chạy dài chồng chất hai ba tầng, tạo thành những đường cong uốn lượn, chỗ cao chỗ thấp vừa hoa mỹ vừa hiện đại với dòng xe cộ nườm nượp mà chóng cả mặt. Đường xá ở Mỹ sao mà cao siêu và vĩ đại thế, nơi đâu cũng toàn xe là xe, đông như đi chảy hội, mà tuyệt nhiên ông Sĩ không nghe một tiếng còi xe nào, chả bù cho tại Việt Nam, chỉ phố huyện của ông thôi mà xe cộ ngược xuôi, xe nọ qua mặt xe kia, bất chấp ai trước ai sau và còi xe thì luôn kêu inh ỏi để người ta biết mà tránh né nhau, chứ đèn đường hay dấu hiệu luật lệ giao thông chẳng hiệu quả gì, hình như chỉ để phô trương và triển lãm, đến nỗi người ta có cảm tưởng rằng nếu xe không có còi thì đừng hòng ra đường. Ông Sĩ phải thốt lên:
– Sao mà nhiều cầu vượt đến thế, sao mà nhiều xe cộ đến thế ? chỉ riêng nước Mỹ này đã ngốn hết bao nhiêu xăng dầu của thế giới rồi còn gì ! Qua khỏi cầu highway 405, xe chở ông Sĩ đang đi vào một thành phố, rồi đến những khu đường vắng vẻ dần, khi xe dừng lại trước một bảng hiệu stop màu đỏ khá lâu thì ông Sĩ ngạc nhiên hỏi ông Tượng:
– Sao ngừng lâu thế ?
– Bảng “Stop” là phải ngừng hẳn xe anh ạ.
– Ối giời, bảng gì thì bảng, nhưng chỗ này vắng vẻ không có ai thì ta cứ linh động mà đi chứ ngừng làm gì cho phí thì giờ ?
– Luật lệ ở Mỹ ai cũng phải tôn trọng, dù là lúc nửa đêm không một bóng người cũng vậy. Ông Sĩ gật gù khen:
– Ở Mỹ thật là tự giác, chả bù cho ở Việt Nam ta cứ làm liều cho đến khi bị phát giác.…
Những khu nhà cư dân hiện ra, ông Sĩ thất vọng khi nghĩ nhà em trai mình ở một nơi vắng vẻ như thế này chắc không khá giả gì. Ông Tượng như đọc được ý tưởng trong đầu ông anh, bèn giải thích:
– Nhà em ở trong khu này, một trong những khu vực nhà cửa có giá của California . Ông Sĩ hỏi lại:
– Ở nơi hiu quạnh thế này mà lại đắt đỏ thế kia à ?
– Vâng, ăn thua địa thế, nhà trên đồi, trên núi còn đắt hơn nhà dưới mặt đất. Chỉ những ai tiền triệu trở lên mới mua nổi nhà trên ấy thôi.
– Lạ nhỉ, ở Mỹ cái gì cũng ngược đời, ở quê mình, đồi núi bỏ không, làng xã phải khuyến khích người dân lên phát quang làm rẫy trồng khoai sắn tăng gia vì lúa gạo không đủ ăn, chứ làm gì có chuyện dọn lên đồi, lên núi mà ở cho hoang lạnh lẻ loi. Ông Tượng kể thêm:
– Nhà ở càng gần biển càng đắt, nhất là những căn nhà sát ngay bờ biển.
– Ối giời, ở Việt Nam chỉ những nhà nghèo mới ở sát biển, đối diện với sóng gió làm hao mòn nhà cửa, biển lấn đất liền có ngày nuốt chửng cả nhà và người chứ quý hóa gì. Ông Tượng hỏi thăm sang chuyện nhà :
– Nghe nói thằng út nhà anh làm việc ở công ty gì trên huyện, có khá không ?
– Chỉ “túc tắc” thôi. Được mỗi ưu điểm là khỏi chân lấm tay bùn như làm ruộng. Ông Tượng ngạc nhiên:
– Anh nói “túc tắc” là gì ? Em không hiểu…
– Là công việc lằng nhằng tạm đủ sống qua ngày. Trước anh có cho nó học tiếng Trung mà không xin được việc làm ở thành phố đành về làm công nhân phố huyện vậy. Ông Tượng lại hỏi và chép miệng than thở:
– Tiếng Trung là gì ? Việt Nam bây giờ nói nhiều từ lạ qúa em không hiểu nổi… Ông Sĩ giải thích:
– Cuộc sống tất bật qúa nên người ta phải nói tắt và hình tượng cho nhanh hiểu chú ạ. Tiếng Trung là Trung quốc, còn Singapore thì gọi là “Sing” cho ngắn gọn, chú hơi đâu mà lăn tăn. À, hai từ “Lăn tăn” là hình tượng đấy, nghĩa là chú cứ để tâm hồn thanh thản như dòng nước bình lặng, đừng suy nghĩ, thắc mắc như khi dòng nước gợn sóng lăn tăn. Hiểu chưa ? Ông Tượng trả lời mà nét mặt vẫn còn hoang mang:
– Vâng, em sẽ cố gắng hiểu. Về đến nhà, sau vài phút chào mừng thăm hỏi nhau rối rít, ông Sĩ lại lục đục với mớ hành lý, lôi ra giấy tờ và nghiêm chỉnh nói với em:
– Chú đưa anh ra công an khu vực khai tạm trú cho xong việc đã….
Ông Tượng bật cười không khác gì chị Việt Nam lúc nãy ở phi trường Los Angeles :
– Ở Mỹ không ai xét hỏi giấy tờ anh đâu. Ông Sĩ không tin:
– Chú nói thế nào ? Nếu công an khu vực không xét giấy tờ, thì chú cứ dẫn anh ra chào họ một tiếng cho phải lẽ, sau này họ không kiếm cớ bắt bẻ, làm tiền mình chú ạ…với lại chị có dự trù sẵn một ký chè Thái Nguyên để biếu họ đây. Ông Tượng ngưng cười, cũng nghiêm chỉnh để giải thích:
– Nước Mỹ không có anh công an khu vực, không ai phải khai tạm trú tạm vắng. Họ đã xét giấy nhập cảnh của anh ở cửa khẩu phi trường, thế là xong.
– Thế anh đi ngoài đường họ có xét hỏi giấy tờ không ?
– Không tin ngay bây giờ anh cứ ra đường đi khơi khơi xem có ai biết anh mới vừa đến Mỹ không ? Ngay cả người hàng xóm bên cạnh cũng không hề biết nữa là… Ông Sĩ vẫn ngơ ngác:
– Thật thế ư ? Chẳng lẽ người Mỹ lại sơ hở thế ? quản lý đất nước và con người lỏng lẻo đến thế ? Ông Sĩ ngồi thừ người vì chưa hết sửng sốt, cả đời ông quen thuộc với nếp sống xã hội chủ nghĩa, đã ngấm vào thịt da xương tủy ông những thủ tục, luật lệ, nên ông tưởng nó theo ông dù ông đi đâu, đến đâu. Hôm nay, ông là một cựu chiến binh cộng sản, cựu kẻ thù của Mỹ, kẻ đã một thời từng mong tiêu diệt những lính Mỹ trên quê hương Việt Nam, theo đúng câu tuyên truyền “ Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” đang chễm chệ ngồi ngay trong lòng nước Mỹ, vậy mà không hề bị họ để ý, nghi ngờ hay làm khó khăn gì cả, quả là chuyện lạ lùng. Buổi chiều, ông Sĩ ăn cơm cùng gia đình ông Tượng, có cả các con ông Tượng ở gần đấy sang chơi, trò chuyện đủ thứ. Gia đình ông Tượng bàn nhau kế hoạch sẽ đưa ông Sĩ đi chơi những nơi trong thành phố, rồi đi thăm thân nhân khác, tại những thành phố hay tiểu bang khác. Thật là nồng nhiệt, thân tình và vui vẻ. Tối hôm đầu tiên nằm ngủ ở Mỹ, trong nhà của em trai mình, trong một căn phòng riêng sạch sẽ đầy đủ tiện nghi, giường nệm, chăn gối thơm tho, phòng tắm, cầu tiêu ngay bên cạnh, ông Sĩ tưởng như mình lạc vào cõi mộng nào. Bao nhiêu năm đời bộ đội nằm bờ bụi, đói khổ, hết chiến tranh thì về quê, cảnh nhà nghèo nàn túng thiếu, ông nào biết có những cảnh đời tiện nghi sung sướng như thế này, ông Sĩ ao ước giá mà bà vợ cùng đi với ông để cùng được hưởng, vì mai kia ông có kể lại chắc gì bà ấy hình dung ra được Ông thao thức mãi chưa ngủ được, phần vì thay đổi giờ giấc, phần vì lạ nhà, lạ cảnh. Ông lan man nhớ lại lúc ở phi trường Los. Anh hải quan đã tin cậy lời ông, một người xa lạ, mới gặp lần đầu một cách dễ dàng mà không xét hỏi thêm gì về hành lý của ông cả. Ông chạnh lòng nhớ đến chuyện xa hơn, sau ngày đất nước hoà bình, ông Sĩ làm đơn xin hưởng lương hưu cựu chiến bình. Từ làng xã, đến các đơn vị đều biết ông bao năm đi bộ đội, vậy mà người ta hành hạ ông phải chạy từ quê lên huyện, lên thành phố, trở về đơn vị cũ, gặp thủ trưởng xưa, xin bao nhiêu chữ ký, bao nhiêu thứ xác nhận chòng chéo, vòng vo đến dư thừa thì họ mới cho hoàn tất hồ sơ. Bao nhiêu công lao và xương máu của ông đã đổ ra trong chiến tranh, mà chút quyền lợi đền bù cho ông sao nhiêu khê, khó khăn đến thế ! Lòng ông lại chập chờn những nỗi vui buồn, vui vì anh em ông có ngày đoàn tụ nhìn thấy nhau, ông sẽ có mấy tháng rong chơi ở nước Mỹ to đẹp này, buồn vì ông thấy hai cảnh đời khác biệt. Gia đình ông Tượng sang Mỹ, 3 đứa con đều ăn học thành tài cả, đứa nào cũng có bằng cấp đại học trở lên, có nhà cửa riêng, còn gia đình ông Sĩ cũng 3 đứa con thì 2 đứa lớn theo nghiệp cha ông làm ruộng, cuộc sống nghèo nàn lam lũ chẳng biết đời nào mới ngóc đầu lên nổi, thằng út đậu xong cái bằng phổ thông trung học, ông đã tìm cách cho nó thoát ly cảnh đồng ruộng, để cuộc đời đỡ vất vả, xin làm công nhân ở một hãng sản xuất đồ gốm trên huyện mà cũng tốn bao nhiêu công phu nhờ cậy giới thiệu và đút lót qùa cáp mới được nhận vào. Ông ngậm ngùi thầm trách bố ông sao ngày xưa không đem cả vợ con đi, mà kẻ trước người sau cho mộng đời dang dở, thì ngày nay cha con ông chắc cũng chẳng thua kém gì cha con ông Tượng. Bố ông yêu thích môn cờ tướng, chơi cờ tướng giỏi, vậy mà ván cờ cuộc đời ông chỉ tính sai một nước cờ mà thiệt thòi cả mấy đời người. Hết nghĩ chuyện nọ đến chuyện kia, ông Sĩ bỗng lo xa khi nghĩ đến 3 tháng du lịch ở Mỹ rồi sẽ trôi qua, ông sẽ trở lại Việt Nam, đối diện với cảnh sống nghèo nàn thường lệ, và trước mắt là đối diện với cuộc hành trình trở về từ Mỹ.
Xưa nay ông đã quen bị đối xử bất công trong mọi tình huống của cuộc sống rồi, có bị quát, bị mắng cũng chai đá rồi. Nhưng từ phi trường ở Nhật Bản đến phi trường ở Mỹ ông đã được đối xử một cách công bằng, lịch sự, hoàn toàn khác biệt ở phi trường Nội Bài, ông chợt thấy một thế giới khác tử tế hơn nơi ông sinh ra và lớn lên cho đến bây giờ. Trời ơi, lượt về ông sẽ gặp lại những bộ mặt từ chuyến bay hãng hàng không Việt Nam ấy, đến phi trường Nội Bài gặp mấy đứa hải quan ấy, mà ông thêm ngao ngán… Ông chỉ muốn chúng nó biến mất trong đầu óc ông để ông ngủ yên tối nay và thoải mái tận hưởng những ngày du lịch một đất nước lạ đời và thăm lại các người thân sau bao nhiêu năm dài xa cách…