TQ và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982

TQ và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982

Ngày đăng 02-07-2019

Trung Quốc là một thành viên tham gia ký kết Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), tuy nhiên các yêu sách “chủ quyền” và vùng biển của Trung Quốc lại chưa tuân thủ đầy đủ các quy định của UNCLOS.

\"\"/

Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS như thế nào

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã viện dẫn, áp dụng sai nhiều quy định của UNCLOS để đưa ra các yêu sách “chủ quyền”, cũng như triển khai các hoạt động trên thực địa (đa phần đều phi pháp) ở Biển Đông, cụ thể:

Yêu sách “chủ quyền” sai quy định. Kể từ sau khi ký kết, tham gia UNCLOS, Trung Quốc chưa bao giờ dựa vào các quy định ở Điều 74 và Điều 83 của Công ước để tiến hành đàm phán về vấn đề phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa với các nước khác có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, mà vẫn khư khư giữ “Đường 9 đoạn” có tính lịch sử chiếm tuyệt đại bộ phận vùng nước Biển Đông và chồng lấn với các nước khác có yêu sách chủ quyền ở xung quanh.

Về đường cơ sở, Trung Quốc đã viện dẫn và áp dụng sai UNCLOS, khi sử dụng đường cơ sở thẳng quá dài và ngang nhiên đưa quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào yêu sách “chủ quyền” của Bắc Kinh. Không những vậy, đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc cũng ngang nhiên áp dụng đường cơ sở thẳng của quốc gia quần đảo nên cách làm đó cũng đã vi phạm luật quốc tế, cần tiến hành chỉnh sửa và bổ sung, kể cả về vấn đề kỹ thuật.

Mơ hồ “vùng nước lịch sử”. Một trong những cơ sở chính để Trung Quốc có thể xác định chủ quyền của mình tại các vùng tranh chấp đó chính là khái niệm về “vùng nước lịch sử”. Khái niệm này không được đề cập trong UNCLOS, tuy nhiên nó được xác định thông qua thông lệ cũng như tập quán quốc tế. Theo đó, “vùng nước lịch sử” có các đặc điểm như sau: (1) Là vùng biển có cấu tạo địa lý đặc biệt, ăn sâu vào đất liền hoặc là một bộ phận gắn liền với lục địa; (2) Ở cách xa đường hàng hải quốc tế; (3) Có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về chiến lược, quốc phòng, an ninh, kinh tế,… đối với quốc gia ven biển; (4) Về mặt lịch sử, quốc gia ven biển đã chiếm hữu, khai thác, sử dụng từ lâu đời mà không có nước nào phản đối. Chế độ pháp lý của vùng nước lịch sử là tương đương với chế độ pháp lý của nội thủy.

Bắc Kinh đã dựa vào Điều 4 ở trên. Theo Phó phòng Chính sách Đối ngoại thuộc Vụ Châu Á của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Zheng Zhenhua thì “những hòn đảo trong khu vực đã có người Trung Quốc sinh sống từ thời Đông Hán (năm 23 tới năm 220 sau Công nguyên)” và rằng “người Trung Quốc đã thiết lập một kiểu chính phủ “giống với hiện tại” từ thời Tống (năm 420 tới năm 478 sau Công nguyên) “như là một bằng chứng cho chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc” đối với những khu vực mà nước này yêu sách tại biển Đông. “Các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi Nam Sa) đã nằm dưới quyền tài phán của khu vực hành chính mà nay thành tỉnh Quảng Đông”. Về chi tiết “không có nước nào phản đối”, Bắc Kinh cho rằng từ năm 1947 và qua suốt những năm của thập niên 1960, không có quốc gia nào, bao gồm cả Mỹ, “từng nêu câu hỏi hoặc nghi ngờ về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Với những luận điệu trên đây, về thực chất Trung Quốc vẫn không có bất cứ một dẫn chứng cụ thể nào để chứng minh cho lập luận của mình, đặc biệt là về dẫn chứng lịch sử. Họ dựa vào những câu nói trong các tác phẩm lịch sử cổ để lại. Tuy nhiên, ngôn từ trong những tác phẩm đó rất mơ hồ và nhiều khi cũng bị làm cho sai lệch về ý nghĩa hay thêm thắt câu chữ, khiến cho người không am hiểu dễ bị lầm tưởng. Về viện dẫn không có nước nào phản đối, trên thực tế, ngày từ Hội nghị San Francisco tháng 9/1951, không một quốc gia tham gia hội nghị nào đồng ý trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cả và kể từ khi “đường lưỡi bò” được Bắc Kinh đưa ra thì ngay sau đó Việt Nam và một số nước ASEAN như Philippines và Indonesia đều đã gửi công hàm phản đối lên Liên Hiệp Quốc. Điều này trái ngược hoàn toàn với viện dẫn trước đó của Trung Quốc. Ngoài ra, khái niệm “vùng nước lịch sử” cũng hoàn toàn không nằm trong các khái niệm của UNCLOS mà Trung Quốc đã tham gia.

Không chỉ đưa ra các tuyên bố đầy mâu thuẫn và không có cơ sở vững chắc, Trung Quốc còn tận dụng những kẽ hở và sự không rõ ràng trong UNCLOS để tuyên bố chủ quyền của mình. Theo những nội dung quy định trong UNCLOS về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mà Việt Nam cũng như các nước khác đã thông qua, nếu các quốc gia khác muốn thực hiện “quyền đi lại không gây hại” trên lãnh hải của quốc gia ven biển thì cần xin phép, còn đối với EEZ thì các quốc gia khác được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, cùng một số quyền hợp pháp khác theo đúng quy định của UNCLOS mà không cần phải xin phép, trừ các hành động không được cho phép theo luật định như khai thác tài nguyên hay nghiên cứu khoa học…

Tuy nhiên, trong tham vọng bành trướng của mình, Trung Quốc đã cố tình yêu sách về chủ quyền với EEZ như đối với lãnh hải. Cụ thể, Trung Quốc đã tước đi quyền tự do hàng hải của các quốc gia khác trên vùng đặc quyền kinh tế rộng 880.000 km2 của nước này khi tuyên bố các quốc gia khác cần phải xin phép Trung Quốc để được thực hiện “quyền tự do hàng hải” qua vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Đây là hành động vi phạm các điều luật của UNCLOS một cách nghiêm trọng và là nguyên nhân của vụ va chạm giữa tàu Impeccable của Mỹ và tàu Trung Quốc vào năm 2009.

Trong khi yêu sách về chủ quyền với EEZ đã xâm phạm tới quyền tự do hàng hải của các nước khác thì việc Trung Quốc cố tình diễn giải sai lệch về chế độ các đảo lại đe dọa cướp đi các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia khác tại biển Đông. Cùng với việc tuyên bố chủ quyền với các đảo và quần đảo trong “vùng nước lịch sử”, Trung Quốc còn yêu sách cho tất cả đảo, đá và quần đảo của mình có đầy đủ chế độ của lãnh thổ đất liền.

Theo đó, tất cả đảo, đá và quần đảo của Trung Quốc đều có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế EEZ mà không phân biệt đảo, đá đó phù hợp quy định chế độ đảo của UNCLOS hay không. Theo UNCLOS, chỉ những đảo phù hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng mới được hưởng chế độ pháp lý của đảo như lãnh thổ đất liền. Còn về quần đảo thì UNCLOS không diễn giải. Nhưng điểm đáng lo ngại ở đây là nếu trong vùng đặc quyền kinh tế của các đảo đó có một đảo khác thì đảo này sẽ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và lại tiếp tục được hưởng chế độ pháp lý đảo như lãnh thổ đất liền. Việc “nối chủ quyền” này đã dẫn tới kết quả là không chỉ những đảo của các nước khác nằm trong khu vực 200 hải lý xung quanh các đảo của Trung Quốc sẽ bị Trung Quốc coi là đảo của mình một cách trắng trợn, hơn thế nữa ranh giới “đường lưỡi bò” cũng sẽ được mở rộng hơn 80% biển Đông và thậm chí chỉ cách một số bờ biển của các nước Philippines, Việt Nam… vài chục kilomet.

Cùng với yêu sách chủ quyền trên EEZ như ở trên thì sau này, nếu Trung Quốc chiếm được biển Đông thì các yêu sách này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho các nước khác. Lúc đó, bất cứ một quốc gia nào đi qua biển Đông sẽ phải xin phép Trung Quốc và biết đâu, với tham vọng vô bờ bến của mình, Trung Quốc sẽ còn thu phí hàng hải trên biển Đông. Không chỉ dừng lại ở đó, nếu Trung Quốc và các nước trong khu vực xung đột thì thậm chí Trung Quốc có thể cấm các nước này lưu thông qua EEZ của mình và biển Đông sẽ bị khóa chặt. Các tuyến giao thông hàng hải của Việt Nam và các nước khác qua biển Đông sẽ phải đóng cửa và thậm chí là cả đường hàng không.

Trung Quốc có thể diễn giải sai lệch về chế độ các đảo là do Điều 121 của UNCLOS chỉ quy định về đảo chứ không có quy định về quần đảo. Thứ hai là do sự thiếu thống nhất của các nước về việc xác định thế nào là bãi đá và thế nào là đảo. Có thể thấy rằng có nhiều điểm mâu thuẫn giữa chính luật nội địa của Trung Quốc và luật pháp quốc tế, cũng như giữa những tuyên bố và hành động của Bắc Kinh.

Ngoài ra, căn cứ chủ yếu mà việc vạch ranh giới biển quốc tế dựa vào là cấu hình của bờ biển và chiều dài của bờ biển; biên giới phải được ghi rõ kinh độ và vĩ độ. Nên Trung Quốc đưa ra yêu sách “đường 9 đoạn” mập mờ là hoàn toàn không cần thiết.

Về việc Trung Quốc mời thầu dầu khí ở Biển Đông. Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC – 23/6/2012) thông báo chào thầu quốc tế đối với một số khu vực trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Trong đó, điểm gần nhất trong các khu vực Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu cách đảo Phú Quý (tỉnh Bình Thuận) chỉ có 30 hải lý. Tổng diện tích vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bị xâm phạm là hơn 160.000 km2. Hành động đó đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hành động đó cũng đã vi phạm những cam kết quốc tế của Trung Quốc với tư cách là một thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982, một bên ký Tuyên bố năm 2002 về ứng xử của các bên ở Biển Đông, cũng như những cam kết trong quan hệ song phương giữa hai nước Việt – Trung.

Theo quy định của các Điều 56 và 57 của UNCLOS, quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để đo chiều rộng lãnh hải nước mình. Trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý mọi tài nguyên thiên nhiên, cũng như đối với các hoạt động khác ở đó. Điều 76 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định rõ, quốc gia ven biển có thềm lục địa tối thiểu 200 hải lý và có quyền mở rộng thềm lục địa của mình đến 350 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500 mét (đường nối các điểm có độ sâu 2.500 mét ở biển) theo đúng trình tự mà Công ước đã quy định.

Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với thềm lục địa của mình. Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 nêu rõ, các quyền này mang tính đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ của quốc gia ven biển đó. Chỉ có nước ven biển mới có quyền thăm dò, khai thác tài nguyên ở thềm lục địa của mình.

Do đó, theo UNCLOS, Việt Nam có vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa rộng tối thiểu 200 hải lý ở Biển Đông và việc CNOOC ngang nhiên mời thầu dầu khí trong vùng biển của Việt Nam là vi phạm UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với khu vực Biển Đông.

Khả năng Trung Quốc sẽ rút khỏi UNCLOS

Trong quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế thì việc tham gia ký kết các công ước quốc tế là tự nguyện và chấm dứt hay rút khỏi UNCLOS cũng thuộc về quyền của Trung Quốc. Về mặt pháp luật mà nói thì không ai có thể ràng buộc, áp đặt không cho Trung Quốc rút khỏi UNCLOS. Tuy nhiên trong quan hệ quốc tế thì hiệu lực của luật pháp quốc tế nó thể hiện sự lợi ích của các quốc gia đan xen và phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực.

Không những vậy, Điều 317 cho phép các quốc gia từ bỏ UNCLOS bằng cách thông báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Nhưng để từ bỏ một Điều ước mất chín năm để đàm phán, có 320 điều khoản và chín phụ lục bao trùm nhiều vấn đề rộng lớn, với 167 quốc gia thành viên và được coi là “bản hiến pháp” của đại dương không thể là một quyết định sáng suốt cho Trung Quốc, vì:

Đầu tiên, từ bỏ UNCLOS sẽ không giúp Trung Quốc thoát khỏi nghĩa vụ tuân theo phán quyết của Tòa trọng tài. Điều 317 của UNCLOS quy định rõ ràng rằng việc từ bỏ không ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.

Thứ hai, từ bỏ UNCLOS không hoàn toàn bảo vệ Trung Quốc chống lại các vụ kiện tương tự trong tương lai có thể được đưa ra bởi Việt Nam, Indonesia hoặc Malaysia ở Biển Đông hay Nhật Bản ở Biển Hoa Đông, theo như lập luận của Talmon. Theo Điều 317, việc từ bỏ UNCLOS chỉ có hiệu lực một năm sau khi có thông báo bằng văn bản. Trong khoảng thời gian một năm này sẽ không có gì ngăn chặn các nước này đưa ra các vụ kiện chống lại Trung Quốc. Thật vậy, khi Colombia rút khỏi Hiệp ước Bogota sau phán quyết năm 2012 của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) về vụ việc giữa Nicaragua và Colombia, Nicaragua đã không lãng phí thời gian khi đệ trình một vụ việc khác chống lại Colombia trước khi thời hạn một năm hết hạn. ICJ khẳng định rằng tòa có thẩm quyền xét xử vụ việc thứ hai trong thời hạn một năm, vì Hiệp ước của Bogota chỉ chấm dứt hiệu lực với Columbia một năm sau khi có thông báo từ bỏ. Như vậy, thay vì loại trừ các vụ kiện chống lại mình, việc từ bỏ UNCLOS của Trung Quốc thậm chí còn có thể kéo theo một loạt các vụ kiện được khởi xướng trước khi thời hạn một năm kết thúc.

Thứ ba, Trung Quốc đã tham gia rất sâu vào hệ thống UNCLOS. Một minh chứng là Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào chế độ đáy biển sâu được thiết lập dựa trên Phần XI của UNCLOS, trong đó cho phép các quốc gia thăm dò và khai thác tài nguyên dưới đáy biển sâu ở những khu vực nằm ngoài thẩm quyền quốc gia. Trên thực tế, Trung Quốc là nhà đầu tư tiên phong trong thăm dò đáy biển sâu, đã tích cực tham gia vào việc thăm dò đáy biển sâu từ những năm 1970. Cơ quan nhà nước của Trung Quốc là Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Tài nguyên Khoáng sản Đại dương đã ký kết ba hợp đồng về thăm dò khoáng sản dưới đáy biển sâu với một tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm về việc quản lý các nguồn tài nguyên này là Cơ quan quyền lực đáy đại dương (ISA).

Sự tham gia của Trung Quốc vào chế độ đáy biển sâu được thúc đẩy không chỉ bởi khả năng thu lời từ khai thác khoáng sản mà còn bởi các lý do chiến lược, bao gồm việc đảm bảo một nguồn cung lâu dài cho nguồn kim loại quý hiếm để thay thế cho nguồn khoáng chất trên mặt đất và việc nâng cao năng lực khoa học và công nghệ biển của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, nước này sẽ phải từ bỏ việc thăm dò hiện tại của mình và làm lãng phí thời gian, nguồn lực và chi phí đáng kể. Cách duy nhất mà Trung Quốc có thể hưởng lợi từ chế độ đáy biển sâu khi không phải là một bên tham gia chế độ này là đầu tư chung với nhà thầu khác và nhận tài trợ từ một quốc gia khác, nhưng đây là một quá trình rất phức tạp, tốn nhiều thời gian và không được đảm bảo.

Trung Quốc cũng đã tận dụng các quyền lợi của mình được quy định trong Điều 76 Phần VI của UNCLOS để yêu sách thềm lục địa vượt quá 200 hải lý nhằm khai thác các nguồn tài nguyên dầu và khí đốt ở đó. Điều 76 cho phép các quốc gia có thềm lục địa đáp ứng được các tiêu chí khoa học nhất định (liên quan đến địa chất và địa mạo của đáy biển) đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) các thông tin để chứng minh phần thềm lục địa mở rộng theo như đề xuất của mình. CLCS có quyền đưa ra các khuyến nghị cuối cùng và ràng buộc về việc thiết lập giới hạn ngoài của thềm lục địa. Ngày 14/12/2012, sau khi sử dụng nguồn lực đáng kể để thu thập dữ liệu trên đáy biển trong khoảng thời gian mười năm, Trung Quốc đã đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài của thềm lục địa ở Biển Hoa Đông. Đệ trình của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản ở Biển Hoa Đông và không ngạc nhiên khi nó gây ra sự phản đối từ Nhật Bản.

Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm tổn hại yêu sách thềm lục địa mở rộng của mình mặc dù CLCS chưa xem xét đệ trình của Trung Quốc. Sự thật là Trung Quốc vẫn có quyền hưởng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý theo luật tập quán quốc tế. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ là liệu những tiêu chí khoa học sử dụng để thiết lập ranh giới ngoài theo quy định của Điều 76 UNCLOS có đạt tới điều kiện của luật tập quán quốc tế hay không.

Hơn nữa, lợi ích chính của việc đệ trình lên CLCS là làm tăng tính hợp pháp của yêu sách thềm lục địa mở rộng của một quốc gia so với quốc gia khác và mang lại sự chắc chắn cần thiết trước khi khai thác dầu khí. Trong phán quyết năm 2012 của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) về vụ việc giữa Bangladesh và Myanmar, việc cả hai bên đệ trình lên CLCS để chứng minh yêu sách thềm lục địa mở rộng có tầm quan trọng to lớn mặc dù CLCS vẫn chưa đưa ra khuyến nghị cuối cùng. Tương tự như vậy, trong phán quyết năm 2012 của ICJ về vụ việc giữa Nicaragua và Columbia, việc Nicaragua không đệ trình lên CLCS khiến ICJ không coi trọng yêu sách thềm lục địa mở rộng của Nicaragua. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, yêu sách thềm lục địa mở rộng của nước này sẽ phải chịu những thay đổi bất thường và sự bất ổn của luật tập quán quốc tế, điều này có thể ảnh hưởng đến vị thế của Trung Quốc so với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông.

Thứ tư, là một quốc gia thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có quyền sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS được quy định trong Phần XV cũng như tham gia vào các tổ chức được thành lập theo UNCLOS. Mặc dù Trung Quốc chưa sử dụng Phần XV, nhưng nước này đã chuẩn bị những bản đệ trình dài cho các phiên điều trần trong hai lần xin ý kiến ​​tư vấn của ITLOS. Trung Quốc cũng là một thành viên của ISA, có một đại diện trong Hội đồng (cơ quan ra quyết định của ISA) trong năm nay, và hiện nay có một đại diện của trong Ủy ban pháp lý và kỹ thuật của ISA chịu trách nhiệm phê duyệt các hồ sơ xin thăm dò và khai thác đáy biển sâu. Trung Quốc có một thành viên trong CLCS cũng như một thẩm phán trong ITLOS. Cơ hội tham gia vào các tổ chức và sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS là đặc quyền chỉ dành cho các quốc gia thành viên và cho phép các quốc gia ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định tại các các tổ chức nói trên. Đây không phải là đặc quyền nên từ bỏ một cách dễ dàng.

Thật vậy, trái với những gì Talmon nhận định, nước Mỹ đã trải qua tất cả những nhược điểm mô tả ở trên khi đứng ngoài hệ thống UNCLOS. Doanh nghiệp Mỹ có lợi ích từ các ngành công nghiệp dầu khí, năng lượng, vận tải biển, đánh bắt cá, và truyền thông đã liên tục tranh luận trước Thượng viện Mỹ rằng việc Mỹ không tham gia UNCLOS đã làm xói mòn các lợi ích thương mại và chiến lược của đất nước. Ví dụ, Mỹ không thể gửi thông tin cho CLCS về thềm lục địa mở rộng, do đó làm suy yếu sự chắc chắn về giới hạn của thềm lục địa và cản trở việc khai thác các nguồn tài nguyên dưới đáy biển. Tương tự như vậy, Mỹ đã không thể tham gia đầy đủ vào chế độ đáy biển sâu trong Phần XI mặc dù là một trong những nước mạnh nhất tham gia vào việc thăm dò đáy biển trước khi UNCLOS được thông qua.

Thêm vào đó, Hải quân Mỹ vẫn luôn cho rằng tình trạng không ký kết đã làm suy giảm uy tín của Mỹ trong quan hệ song phương và đa phương và làm tổn hại các hoạt động biển trên toàn cầu của nước này. Các chính quyền Mỹ qua nhiều đời đều ủng hộ việc phê chuẩn UNCLOS và chỉ một nhóm nhỏ các thượng nghị sĩ bảo thủ đã cản trở tiến trình này. Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc, một cường quốc biển toàn cầu, có muốn ở cùng vị thế như Mỹ hay không khi các lợi ích biển cốt lõi được quyết định bởi một một thứ dễ thay đổi và bất ổn như luật tập quán quốc tế.

Cuối cùng và có lẽ cũng là lý do thuyết phục nhất, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sẽ làm suy yếu niềm tin vốn đã mong manh trong cam kết của Trung Quốc về “sự trỗi dậy hòa bình” với tư cách là một siêu cường toàn cầu. UNCLOS thiết lập nền một số kỳ vọng cơ bản về cách hành xử của các quốc gia trên các đại dương và từ đó cung cấp một ngôn ngữ chung thông qua đó các bên yêu sách, ngay cả Trung Quốc, truyền đạt các quan điểm và yêu sách của mình. Khi căng thẳng ở Biển Đông leo thang hàng ngày thì việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm suy giảm lòng tin của các quốc gia trong khu vực. Điều này do đó sẽ làm hỏng mọi nỗ lực của Trung Quốc trong việc theo đuổi lựa chọn theo mong muốn của mình, đó là tìm ra một giải pháp trên cơ sở thương lượng cho tranh chấp Biển Đông.

Phương án Trung Quốc không tuân thủ phán quyết cuối cùng của Toà Trọng tài chắc chắn sẽ gây tổn hại đến vị thế của Trung Quốc với tư cách là một thành viên tuân thủ pháp luật của cộng đồng quốc tế. Nếu thêm vào đó mà từ bỏ một chế độ pháp lý lâu dài và được chấp nhận rộng rãi như UNCLOS có thể sẽ gây ra những hệ quả sâu rộng, đi ngược lại lợi ích quốc gia lâu dài của Trung Quốc. Việc Mỹ không phê chuẩn UNCLOS còn được dung thứ bởi vì Mỹ luôn tuân thủ theo cơ chế UNCLOS. Tuy nhiên, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sau khi tòa án kết luận hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với UNCLOS sẽ không được chấp nhận theo cách tương tự. Có rất nhiều hướng hành động mà Trung Quốc có thể thực hiện sau khi phán quyết của Toà Trọng tài được công bố. Tuy nhiên, từ bỏ UNCLOS không nên là một trong số đó.

Nhìn chung, việc Trung Quốc viện dẫn và áp dụng sai các quy định của UNCLOS trong việc đưa ra các yêu sách “chủ quyền”, triển khai các hoạt động phi pháp ở Biển Đông là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, để thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc sẽ bất chấp tất cả và sẽ chẳng đời nào Bắc Kinh rút khỏi UNCLOS – dù cho bị cộng đồng quốc tế lên án và chỉ trích.

Bài Liên Quan

Leave a Comment