Trở ngại với chính sách châu Á của tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper muốn triển khai thêm tên lửa và tăng số lượng căn cứ Mỹ tại châu Á nhưng gặp khó khăn khi thuyết phục các nước.
Mark Esper tại Washington ngày 16/7. Ảnh: Reuters. |
\”Ông ấy sẽ là một bộ trưởng quốc phòng tuyệt vời\”, Tổng thống Mỹ Trump nói khi chứng kiến lễ tuyên thệ nhậm chức tháng trước của Mark Esper, ông chủ Lầu Năm Góc thứ tư trong ba năm cầm quyền của Trump.
Tại châu Á, các nhà hoạch định chính sách quốc phòng và các nhà phân tích đã theo dõi chặt chẽ những thay đổi nhân sự ở Lầu Năm Góc trong nhiệm kỳ của Trump. Họ hy vọng rằng Esper, người tốt nghiệp Học viện Quân sự Mỹ (West Point) và từng giữ chức bộ trưởng lục quân sẽ đảm nhiệm vị trí mới này lâu dài.
Trong nhiều thập niên, các quốc gia ở xa Mỹ – từ Sri Lanka ở Ấn Độ Dương cho đến đồng minh Philippines ở Đông Nam Á – đã hoan nghênh việc Mỹ tăng cường hiện diện ở châu Á, coi họ như hàng rào quan trọng chống lại sức ảnh hưởng ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực. Esper cũng thể hiện sự quan tâm của mình với châu Á khi thăm 5 quốc gia tại khu vực trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên ngày 3-9/8.
Phát ngôn gây chú ý nhất của ông trong chuyến công du châu Á là ông hy vọng sẽ triển khai các tên lửa tầm trung đến khu vực \”càng sớm càng tốt\”. Esper đưa ra bình luận một ngày sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân Tầm trung (INF) họ ký năm 1987 với Liên Xô, cấm tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình phóng từ mặt đất với tầm bắn 500 – 5.500 km.
Đây là chính sách mà những quan chức Mỹ có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc muốn làm từ lâu, với lý do Bắc Kinh đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc sản xuất tên lửa loại này nhờ không bị ràng buộc bởi INF. Cựu giám đốc tình báo Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Jim Fanell cảnh báo tên lửa \”diệt tàu sân bay\” DF-21D của Trung Quốc có thể vô hiệu hóa các căn cứ hải quân của Mỹ ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như nhắm vào tàu sân bay hoạt động ở khu vực Tây Thái Bình Dương.
Khi được hỏi về khả năng Trung Quốc phản ứng gay gắt với với kế hoạch của mình, Esper cho biết: \”Hơn 80% vũ khí trong kho của họ là các hệ thống tầm trung, do đó, các bạn không nên ngạc nhiên khi thấy chúng tôi muốn có khả năng tương tự\”.
Tại Bắc Kinh, các quan chức Trung Quốc nhanh chóng cảnh báo về các biện pháp đối phó nếu tên lửa Mỹ được triển khai trong khu vực. Trong một bài bình luận trên báo nhà nước Trung Quốc Global Times hồi đầu tháng, tướng Trung Quốc về hưu Vương Hồng Quang viết rằng Mỹ có thể triển khai tên lửa theo hình chữ C như một vòng cung bao quanh Trung Quốc, đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh nước này.
Ông cho rằng Quần đảo Aleutian thuộc bang Alaska của Mỹ, đảo Guam ở Thái Bình Dương, căn cứ Mỹ – Anh Diego Garcia ở Ấn Độ Dương và các quốc gia thân thiện với Mỹ ở trung và tây Á là những nơi có thể được chọn làm địa điểm đặt tên lửa. Ông Vương cảnh báo rằng các quốc gia đồng ý cho Mỹ triển khai tên lửa sẽ là mục tiêu hàng đầu của Trung Quốc nếu xung đột Mỹ – Trung nổ ra.
Một số căn cứ của Mỹ ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Đồ họa: Texpertis. |
Tại Thái Bình Dương, giới quan sát cho rằng Australia và Hàn Quốc là những nơi Mỹ có thể đặt tên lửa, mặc dù các lãnh đạo nước này đã ra tuyên bố rằng họ không đàm phán với Washington về kế hoạch như vậy. Tuần trước, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ về kiểm soát vũ khí và các vấn đề an ninh quốc tế Andrea L. Thompson nhấn mạnh bất cứ quyết định nào của Mỹ trong khu vực cũng được thực hiện sau khi tham vấn với đồng minh.
Các nước châu Á sẽ có một khoảng thời gian để cân nhắc trước khi bắt đầu suy xét những tác động lâu dài từ kế hoạch của Esper. \”Sẽ rất khó để Mỹ triển khai tên lửa trong năm nay\”, Ian Bremmer, chủ tịch công ty tư vấn chính trị Eurasia Group có trụ sở tại New York cho biết. \”Vì vậy, đây có thể là một ý tưởng dài hạn\”.
Một tuyên bố đáng chú ý khác của Esper là Washington cần nhiều căn cứ hơn ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để đối phó \”những tiến bộ công nghệ quan trọng\” của Trung Quốc. Mỹ có khoảng 800 căn cứ trải rộng trên mọi lục địa ngoại trừ Nam Cực. Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, họ có những căn cứ như căn cứ không quân Kadena ở Okinawa, Nhật Bản, căn cứ không quân Andersen ở đảo Guam hay những cơ sở nhỏ hơn để tiếp liệu và neo đậu như tại Singapore và Thái Lan.
Patrick Cronin, chuyên gia về an ninh tại Viện Hudson ở Washington, đồng ý rằng việc duy trì một lực lượng sẵn sàng, ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ. Bremmer cho rằng căn cứ hải quân Lombrum trên đảo Manus, ngoài khơi Papua New Guinea và cơ sở hải quân bị đóng cửa trên đảo Midway ở Bắc Thái Bình Dương có thể được mở cửa trở lại. Cả hai cơ sở này đều từng là nơi đồn trú của Mỹ trong Thế chiến II.
Tuy nhiên, các nhà phân tích khu vực cho rằng nỗ lực bổ sung căn cứ của Washington sẽ phải đối mặt với vô số rào cản, trong số đó có sự phản đối gay gắt từ người dân bản địa. Nhà phân tích hải quân Singapore Collin Koh dẫn chứng việc người Nhật ở Okinawa phản đối Mỹ tái bố trí căn cứ không quân từ thị trấn đông đúc Ginowan đến khu vực duyên hải ít người Nago do lo ngại về vấn đề môi trường.
Ở Nam Thái Bình Dương – vốn được coi là nơi dễ dàng đón nhận các căn cứ của Mỹ, việc mở thêm căn cứ cũng không được đảm bảo vì các quốc đảo Thái Bình Dương không muốn chọc giận Trung Quốc.
Giới phân tích cho rằng các nước trong khu vực khó có thể chấp nhận sự hiện diện thường trực của Mỹ ở nước họ khi nhìn thấy rắc rối ở những nơi như Okinawa. Koh đánh giá phương án khả dĩ hơn là các nước châu Á cho phép quân Mỹ tiếp cận một số cơ sở chứ không cho họ duy trì một căn cứ lâu dài. \”Đây là cách sắp xếp hợp lý hơn đối với các nước sở tại\”, ông nói.
Chiến đấu cơ F-15 tại căn cứ không quân Kadena ở Okinawa. Ảnh: AFP. |
Tuy nhiên, có một nước lớn trong khu vực đang muốn thắt chặt quan hệ an ninh với Mỹ là Ấn Độ, vì họ đang dần xa cách đồng minh truyền thống là Nga để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Năm 2016, Ấn Độ đã ký thỏa thuận cho phép cả hai nước sử dụng các căn cứ của nhau. Hai nước cũng ký thỏa thuận về liên lạc quân sự và đang cố gắng đạt được hiệp ước về chia sẻ thông tin và tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng.
Kashish Parpiani, thuộc nhóm Tổ chức Nghiên cứu Quan sát viên, cho biết New Delhi dưới thời Thủ tướng Modi \”đẩy mạnh phát triển quan hệ quốc phòng với Mỹ, mặc dù hai bên có bất đồng ở các lĩnh vực khác như thương mại\”. Trump cáo buộc Ấn Độ áp thuế rất cao đối với hàng Mỹ nhưng hợp tác quốc phòng song phương không bị ảnh hưởng.
Pankaj Jha, giáo sư tại Đại học Toàn cầu O.P. Jindal ở Ấn Độ, cho biết Lầu Năm Góc nhận thức được rằng dù mối quan hệ quân sự đang thuận buồm xuôi gió, họ vẫn khó có thể đưa New Delhi vào bất kỳ chiến lược chống Trung Quốc nào.
Một số nhà phân tích phương Tây đánh giá liên kết giữa 4 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương gồm Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ là biện pháp tốt nhất để chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy nhiên, Jha cho rằng: \”Ấn Độ sẽ không bao giờ đối chọi với Trung Quốc và Trung Quốc cũng không thể đối đầu với Ấn Độ. Mỹ có rất ít lựa chọn nếu muốn lôi kéo Ấn Độ vào một chiến lược chống Trung Quốc\”.
Một số nhà phân tích đặt câu hỏi liệu có thể tin tưởng rằng Mỹ sẽ thực hiện đúng các cam kết về bảo vệ an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương hay không. Michael H. Fuchs, cựu cố vấn ngoại trưởng dưới thời Obama, nói rằng Trump dường như chỉ quan tâm đến Triều Tiên và vấn đề thương mại. \”Không một quan chức nước ngoài nào có thể tin tưởng vào những gì chính quyền này nói vì Tổng thống có thể thay đổi chính sách bằng một dòng tweet vào bất cứ lúc nào\”.
Các quan chức chính quyền của Trump nhiều lần bác bỏ những nghi ngờ như vậy, cho rằng các nỗ lực quốc phòng và ngoại giao của họ ở châu Á còn mạnh mẽ hơn thời Obama.
Trong khi đó, một quan chức quốc phòng châu Á giấu tên cho biết bộ phận hoạch định chính sách ở nước ông luôn tính đến yếu tố chiến lược của Mỹ ở châu Á vẫn sẽ khó đoán trong nhiều năm, Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao Mỹ có thể tiếp tục thay đổi nhân sự nếu Trump tái đắc cử vào năm sau.
Ông nhấn mạnh rằng các kế hoạch phòng thủ của nước mình được xây dựng \”với giả định rằng mọi thứ có thể thay đổi nhanh chóng và chúng ta phải có khả năng phản ứng trước những thay đổi địa chính trị\”.
Phương Vũ (Theo SCMP)