Những đại dịch tàn khốc và bài học thời Covid-19
Bryan WalshViết cho BBC Future
Đại dịch virus corona chủng mới, được đặt tên là Covid-19, lẽ ra đã có thể đoán trước được.
Từ những bài tường thuật của chính mình, tôi đã trực tiếp nắm được những thông tin về đại dịch này.
Vào tháng 10/2019, tôi tham dự một chương trình giả lập liên quan đến một đại dịch giả tưởng, do một loại virus corona mới gây ra, giết chết 65 triệu người, và vào năm 2017 tôi từng viết một phóng sự cho Tạp chí TIME về cùng chủ đề. Bài viết trên trang bìa tạp chí có tựa đề: \”Cảnh báo: Thế giới chưa sẵn sàng cho đại dịch mới\”.
Kiến thức của tôi không có gì đặc biệt lắm.
Trong 15 năm qua, không ít bài báo và các sách trắng từng đưa ra những cảnh báo thảm khốc rằng đại dịch toàn cầu với một loại bệnh hô hấp mới chỉ còn là vấn đề thời gian.
Trên tạp chí BBC Future vào năm 2018, chúng tôi tường thuật các chuyên gia tin rằng đại dịch cúm chỉ còn là vấn đề thời gian và rằng có thể có đến hàng triệu loại virus chưa được biết đến trên thế giới, và có một chuyên gia nói với chúng tôi rằng, \”Tôi nghĩ có nhiều khả năng là đại dịch kế tiếp sẽ do một loại virus mới gây ra.\”
Vào năm 2019, Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh dưới quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump tiến hành một diễn tập đại dịch có tên \”Bệnh truyền nhiễm Đỏ\”, trong đó họ giả định là có một đại dịch cúm xuất phát từ Trung Quốc và lan ra khắp thế giới.
Giả lập này dự đoán có thể sẽ có 586.000 người thiệt mạng chỉ riêng tại Mỹ.
Nếu ước tính bi quan nhất về Đại dịch Covid-19 trở thành hiện thực, thì thứ như \”Bệnh truyền nhiễm Đỏ\” sẽ còn là may mắn.
Chỉ mới tính đến ngày 26/3 đã có hơn 470.000 ca bệnh Covid-19 được xác định trên toàn cầu, với 20.000 người tử vong. Căn bệnh lan đến mọi châu lục trừ Nam Cực.
Trong thực tế thì nó đã là đại dịch từ trước khi Tổ chức Y tế Thế giới WHO chính thức tuyên bố đại dịch, vào ngày 11/3. Và lẽ ra ta phải thấy trước đại dịch này đang đến.
Covid-19 đánh dấu sự trở lại của kẻ thù cực kỳ xưa cũ và quen thuộc. Trong suốt lịch sử, không gì giết chết nhiều người bằng virus, vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh.
Không phải thảm họa tự nhiên như động đất hay núi lửa. Còn chiến tranh thì thậm chí không đáng để tính đến.
Kẻ giết người hàng loạt
Hãy lấy ví dụ bệnh sốt rét do muỗi lây truyền. Căn bệnh này đã rình mò thế giới loài người trong hàng ngàn năm, và dù số người chết giảm đáng kể trong 20 năm qua thì nó vẫn làm chết gần nửa triệu người mỗi năm.
Qua hàng ngàn năm, bệnh dịch đã là kẻ giết người hàng loạt ở quy mô mà ta không thể nào tưởng tượng nổi ngày nay – dù là trong thời đại của virus corona.
Bệnh dịch hạch Justinian xảy ra vào thế kỷ thứ Sáu và giết đến 50 triệu người, có lẽ là một nửa dân số toàn cầu thời đó.
Cái Chết Đen xảy ra vào thế kỷ 14 – có vẻ như do cùng loại mầm bệnh gây ra – giết đến 200 triệu người.
Bệnh đậu mùa có thể đã làm chết đến 300 triệu người chỉ riêng trong thế kỷ 20, mặc dù đó là lúc chúng ta đã có vaccine ngừa hiệu quả – cũng là loại vaccine đầu tiên trên thế giới – từ năm 1796.
Khoảng 50-100 triệu người chết vì đại dịch cúm năm 1918 – số người chết vượt xa số thương vong trong Thế chiến Thứ Nhất, vốn xảy ra vào cùng thời kỳ. Cứ ba người thì có một người bị nhiễm virus cúm năm 1918.
HIV, đại dịch vẫn còn theo ta và vẫn chưa có vaccine phòng ngừa, đã giết chết khoảng 32 triệu người và lây nhiễm đến 75 triệu người, và mỗi ngày đều có thêm người nhiễm mới.
Nếu những con số này gây sốc, đó là vì ngày nay các đại dịch hiếm khi được thảo luận trong các tiết học lịch sử, dù rằng trong quá khứ không xa lắm, chúng đơn giản là thực tế tồi tệ của đời sống.
Có rất ít đài tưởng niệm nạn nhân bệnh dịch.
Nhà sử học Alfred Crosby là tác giả của quyển sách \”Đại dịch bị Lãng quên ở Hoa Kỳ\”, một trong những cuốn sách vĩ đại nhất về dịch cúm năm 1918.
Nhưng Crosby chỉ bị thôi thúc phải bắt tay nghiên cứu về đại dịch khi ông vô tình chạm phải thông tin bị quên lãng là tuổi thọ của người Mỹ thình lình giảm từ 51 tuổi vào năm 1917 xuống còn 39 tuổi vào năm 1918, rồi lại tăng vào năm sau đó. Sự sụt giảm đó vào năm 1918 là vì một virus có kích cỡ chỉ 120 nanomet.
Sức mạnh lây lan của mầm bệnh
Mầm bệnh giết người hàng loạt hiệu quả đến vậy vì chúng có khả năng tự phân đôi.
Đây là điểm khiến chúng khác những hiểm họa khác mà loài người gặp phải. Mỗi viên đạn giết người trong chiến tranh phải được bắn và bắn trúng mục tiêu. Hầu hết thảm họa tự nhiên gói gọn theo từng khu vực: một trận động đất xảy ra ở Trung Quốc không thể gây tổn thương bạn ở Anh Quốc.
Nhưng khi một virus, như virus corona mới này, nhiễm vào vật chủ, thì vật chủ trở thành nhà máy sản xuất tế bào để sản xuất thêm nhiều virus. Thế còn vi khuẩn có khả năng tự nhân đôi trong môi trường thích hợp.
Triệu chứng do một mầm bệnh truyền nhiễm gây ra – như hắt xì, ho hay chảy máu – khiến triệu chứng có thể lây truyền qua cho vật chủ kế tiếp, và kế tiếp, sự lây truyền xảy ra được ghi nhận dưới đơn vị là con số lây lan, còn gọi là \”R0\” của mầm bệnh, tức là mức độ một người bệnh có thể lây nhiễm cho bao nhiêu người dễ tổn thương. (Trường Đại học Imperial College London ước tính chỉ số R0 của virus corona mới là từ 1,5 đến 3,5).
Và vì con người di chuyển qua lại – tương tác với những người khác trong mọi hình thức từ bắt tay đến quan hệ tình dục – họ đem theo những vi sinh vật này cùng họ.
Không có gì ngạc nhiên khi các quân đội từ lâu đã thử tận dụng bệnh dịch làm công cụ chiến tranh. Cũng không có gì ngạc nhiên là mãi đến gần đây, số lượng binh lính chết vì bệnh tật nhiều hơn số chết trong chiến trận. Một mầm bệnh là vũ khí hoàn hảo cực kỳ tiết kiệm, biến nạn nhân trở thành hệ thống lây truyền.
Sự đe dọa thường xuyên của dịch bệnh, cũng như những yếu tố khác, đã kìm chế sự phát triển và mở rộng của con người.
Vào đầu thế kỷ 19, tuổi thọ cư dân toàn cầu chỉ là 29 năm – không phải vì con người không sống lâu đến tuổi già vào thời đó, mà là vì quá nhiều người chết từ thuở sơ sinh vì bệnh tật, hoặc bị nhiễm trùng khi sinh hay sau khi bị vết thương gì đó.
Những thành phố thời tiền hiện đại chỉ có thể duy trì dân số bằng làn sóng người nhập cư liên tục đổ đến để bù cho số cư dân đã chết vì bệnh tật.
Sự phát triển của con người, đầu tiên là sự cải thiện điều kiện vệ sinh, và sau đó là đến những biện pháp đối phó như vaccine và kháng sinh, đã làm thay đổi toàn bộ.
\”Đánh bại sự lây nhiễm đã vượt qua những rào cản đó và cho phép ta có những thành phố toàn cầu,\” Charles Kenny, nghiên cứu sinh cao cấp tại Trung tâm Phát triển Toàn cầu, một trung tâm nghiên cứu ở Washington DC, và là tác giả của quyển sách sắp phát hành có tên \’Chiến thắng trong Cuộc chiến chống lại Cái chết: Nhân loại, Truyền nhiễm và Chiến đấu cho Thế giới Hiện đại\’.
Đó là chiến thắng đã đem lại cho ta thế giới hiện đại như ta biết.
Thế giới tốt đẹp hơn
Người ta khó có thể hiểu đầy đủ họ đã thắng cuộc chiến đó nhanh tới mức nào.
Ông bà cố của tôi có thể đã là nạn nhân của dịch cúm năm 1918. Ông bà nội tôi sống suốt thời ấu thơ và tuổi trẻ trước khi người ta tìm ra penicillin. Cha mẹ tôi được sinh ra trước thời vaccine bại liệt được sáng chế vào năm 1954.
Thế nhưng đến năm 1962, nhà nghiên cứu virus đạt giải Nobel, Huân tước Frank Macfarlane Burnet đã có thể ghi nhận rằng \”viết về bệnh truyền nhiễm gần như là viết về một thứ đã trôi vào lịch sử.\”
Trong thế giới phát triển và thế giới đang phát triển, giờ đây chúng ta chết vì những căn bệnh không thể lây truyền như ung thư, bệnh tim hay bệnh Alzheimer nhiều hơn từ bệnh truyền nhiễm.
Sự sụt giảm bệnh truyền nhiễm là bằng chứng tốt nhất cho thấy cuộc sống trên hành tinh này đang trở nên tốt hơn.
Trong thời gian viết quyển sách của mình \”Thời Diệt vong\”, tôi đến thăm nhà dịch tễ học Marc Lipsitch tại văn phòng của ông ở Trường Y tế Công Harvard T.H Chan, thuộc Đại học Harvard tại Boston trong một chiều mưa mùa xuân năm 2018.
Lipsitch là một trong những nhà dịch tễ học có sức ảnh hưởng nhất ở Hoa Kỳ, và là một trong những người rât nghiêm túc trong việc đánh giá nguy cơ một đại dịch mới có thể gây ra rủi ro thảm họa toàn cầu thực sự – và đó cũng là lý do khiến tôi đến đây gặp ông.
Nhưng buổi sáng hôm đó, Lipsitch cho tôi xem một thứ mà tôi không ngờ: đó là biểu đồ mô tả tỷ lệ tử vong vì bệnh truyền nhiễm tại Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Biểu đồ mô tả là sự sụt giảm đáng kể, từ khoảng 800 người chết vì bệnh truyền nhiễm trên 100.000 dân vào năm 1900 đến 60 người chết trên 100.000 dân vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20.
Có một đợt tăng đột ngột vào năm 1918, đó có thể là bệnh cúm, và có một đợt tăng nhẹ và tạm thời trong suốt thời điểm tồi tệ nhất của Đại dịch AIDS vào thập niên 1980.
Tuy nhiên, Lipsitch nói với tôi \”tỷ lệ chết vì bệnh truyền nhiễm đã giảm xuống gần 1% mỗi năm, khoảng 0,8% hàng năm, liên tục trong suốt cả thế kỷ.\”
Thảm kịch của tương lai
Đây là tin tốt. Tin xấu là, dịch Covid-19 nhắc nhở ta rằng bệnh truyền nhiễm không biến mất.
Trong thực tế, giờ đây có nhiều bệnh truyền nhiễm hơn bao giờ hết: số ca nhiễm từ những bệnh truyền nhiễm mới như Sars, HIV và Covid-19 đã tăng gần như gấp bốn lần so với thế kỷ trước.
Chỉ tính từ năm 1980, số vụ dịch bùng nổ mỗi năm gần như tăng gấp ba lần.
Có nhiều lý do dẫn đến sự tăng này.
Một lý do là trong 50 năm vừa qua, dân số thế giới trên hành tinh này đã tăng hơn gấp đôi. Điều này có nghĩa là sẽ có nhiều người bị nhiễm bệnh hơn, và đến lượt họ sẽ gây lây nhiễm cho nhiều người khác, đặc biệt là trong các đô thị có mật độ dân số cao.
Cũng trong thời gian này, chúng ta cũng nuôi nhiều gia súc hơn so với tổng số tất tật gia súc mà con người đã nuôi trong suốt thời gian kể từ khi bắt đầu thuần hoá chúng, từ hơn 10.000 năm trước, cho đến năm 1960, và virus có thể truyền từ những động vật trên cho con người.
Đúng như những gì mà dịch Covid-19 đang thể hiện, nền kinh tế liên kết toàn cầu vừa khiến bệnh dịch mới lan nhanh hơn, và cùng với chuỗi cung ứng dài, vừa trở nên cực kỳ dễ bị gãy đổ vì dịch bệnh gây ra.
Khả năng đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới trong thời gian 20 giờ hoặc ngắn hơn, và mang theo virus cùng với hành lý xách tay, đã cho phép bệnh dịch lan tràn và phát triển khi chúng lẽ ra đã có thể bị tiêu diệt trong quá khứ.
Với tất cả những tiến bộ ta có được trong việc chống lại bệnh truyền nhiễm, thì sự phát triển đã khiến ta trở nên dễ bị tổn thương hơn trước những vi sinh vật đã tiến hóa với tốc độ nhanh hơn con người gấp 40 triệu lần.
Thuốc kháng sinh đã cứu mạng hàng trăm triệu người từ khi người ta vô tình khám phá ra penicillin vào năm 1928, nhưng khả năng kháng kháng sinh của các vi khuẩn đang ngày càng tăng lên theo từng năm.
Đây là diễn tiến mà các bác sĩ tin rằng là một trong những đe dọa nghiêm trọng nhất với sức khỏe cộng đồng toàn thế giới.
Trong thực tế, mỗi năm có đến 33.000 người thiệt mạng vì nhiễm trùng kháng kháng sinh ở Châu u, theo một nghiên cứu năm 2018.
\”Thảm họa kháng sinh\”, như cựu trưởng cố vấn y tế Anh Quốc Sally Davies gọi tên, đã đặt chúng ta vào tình trạng nguy hiểm, như trở lại thời mà những nhiễm trùng bình thường nhất có thể giết người.
Quay trở lại thời năm 2013, Ngân hàng Thế giới – khi làm ước tính xem đại dịch cúm 1918 có thể khiến nền kinh tế toàn cầu hiện đang giàu có và liên kết chặt chẽ hơn bao giờ hết của ta tốn bao nhiêu tiền – đã đưa ra con số là hơn 4 nghìn tỷ đô la Mỹ, gần tương đương toàn bộ GDP của Nhật Bản.
Ước tính ban đầu về thiệt hại kinh tế do dịch Covid-19 gây ra đã vượt qua con số một nghìn tỷ đô.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO vốn vận hành rất tốt dưới thời đại dịch Sars, đã trở nên cực kỳ vụng về trước những đợt bùng phát dịch bệnh mới, khiến các chuyên gia kêu gọi toàn bộ tổ chức này phải tái cấu trúc.
Biến đổi khí hậu làm tăng số lượng những động vật truyền bệnh và côn trùng như muỗi Aedes aegypti, loài vật làm lây truyền virus Zika.
Thậm chí chính tâm lý con người cũng gặp vấn đề. Đi cùng với sự nghi ngờ tác dụng của vaccine ngày càng lan rộng là sự tái xuất hiện của những căn bệnh từ lâu đã bị diệt trừ như bệnh sởi, khiến cho WHO trong năm 2019 đã gọi phong trào chống vaccine là một trong những 10 mối đe dọa sức khỏe cộng đồng hàng đầu thế giới.
Bệnh Covid-19 rất có thể là căn bệnh của thời đại này, khởi phát từ một thành phố đông đúc trong đất nước Trung Quốc vừa thịnh vượng và thông thương, trước khi lan rộng ra khắp thế giới chỉ trong vài tháng.
Nhưng phản ứng của chúng ta trước căn bệnh vừa cực kỳ hiện đại lại rất cổ hủ về thực tế.
Các nhà khoa học khắp thế giới đã sử dụng những công cụ tiên tiến nhất nhanh chóng xác lập bộ gene của virus corona, truyền thông tin về sự nguy hiểm của virus này đi, và phối hợp các biện pháp khả thi và tìm kiếm vaccine, tất cả đều nhanh chóng hơn bao giờ hết.
Nhưng khi virus có mặt giữa cộng đồng, phản ứng hiệu quả duy nhất của chúng ta là đóng cửa toàn bộ xã hội và ngừng toàn bộ hệ thống sản xuất của chủ nghĩa tư bản toàn cầu.
Ngoại trừ tin nhắn cảnh báo, họp hành bằng video và xem phim Netflix, những gì ta đã làm không khác bao nhiêu so với tổ tiên ta từng cố gắng để ngăn chặn bệnh dịch bùng phát. Kết quả thu được đã là cuộc hóa trị cho nền kinh tế toàn cầu.
Sự xuất hiện của một loại virus như Covid-19 là điều cực kỳ dễ đoán; hành động mà ta có thể làm để ngăn chặn căn bệnh này đến cũng dễ đoán.
Ta cần tăng cường sức mạnh của hệ thống phát hiện y tế toàn cầu, để đảm bảo rằng khi loại virus kế tiếp xuất hiện – mà chắc chắn là nó rồi sẽ xuất hiện – ta sẽ nhanh chóng tóm được nó, và thậm chí tiêu diệt nó.
Ngân sách của WHO, tổ chức về mặt hình thức là chịu trách nhiêm về sức khỏe của 7,8 tỷ cư dân toàn cầu, có vẻ như chẳng hơn gì một bệnh viện đô thị lớn ở Mỹ.
Ta cần cam kết mạnh mẽ hơn trong việc phát triển vaccine, điều này bao gồm việc trấn an những công ty dược phẩm lớn rằng đầu tư của họ sẽ không bị phí hoài khi một cơn bùng phát dịch bệnh bị tiêu diệt trước khi nó kịp bắt đầu.
Chúng ta cần thiết lập thêm những dự phòng trong bộ máy sức khỏe cộng đồng. Cũng như quân đội Hoa Kỳ được thiết kế và cấp kinh phí hoạt động để chiến đấu với chiến tranh trên hai mặt trận cùng lúc, vậy thì hệ thống chăm sóc sức khỏe của ta cũng nên có khả năng tăng cường để đối phó với đại dịch kế tiếp.
Một thách thức đang tồn tại trong việc chuẩn bị đối phó đại dịch chính là điều mà các chuyên gia gọi là cơn sốc và lãng quên.
Các chính trị gia rất thường xuyên hứa hẹn cung cấp kinh phí ngay sau khi gặp khủng hoảng như đại dịch Sars hay Ebola, chỉ để rồi những lời hứa khác chồng lấp lên nhau khi ký ức về bệnh dịch phai mờ.
Bằng cách nào đó, tôi cho rằng đây sẽ không phải tình huống xảy ra với Covid-19.
Chúng ta cần làm tất cả những gì có thể không chỉ để sống sót qua đại dịch này, mà cần đảm bảo rằng nó là lời nhắc nhở từ quá khứ, không phải là dấu hiệu cho những điều sắp xảy ra.
Bryan Walsh là phóng viên chuyên mục Future của trang tin Axios và là tác giả của quyển sách: \”Thời Diệt vong: Ghi chú ngắn gọn về sự Diệt vong của Thế giới, là tác phẩm mà bài báo dựa vào. Cuốn \”Thời Diệt vong\” do Hachette Books xuất bản.