Nhân \”Đường lên đỉnh Olympia\’\’ bàn về người tài và giáo dục Việt Nam
- Bùi Thư
- BBC News Tiếng Việt
24 tháng 9 2020
Nhiều người mỉa mai chương trình Đường lên đỉnh Olympia là \”tìm nhân tài cho Australia\”, trong khi nhiều ý kiến khác cho rằng lo \’chảy máu chất xám\’ trong bối cảnh toàn cầu hóa là \’lỗi thời\’.
Mỗi năm, khi chương trình Đường lên đỉnh Olympia công bố nhà vô địch mới, mạng xã hội lại xôn xao: \”Thêm một nhân tài nữa cho Úc\”; \”Chúc mừng Australia\”… Nhiều người thậm chí đặt tên chương trình là \”Đường lên đỉnh Australia\”.
Điều này xuất phát từ thực tế hầu hết các nhà vô địch Olympia, sau khi nhận học bổng du học, đều chọn ở lại Australia.
Trao đổi với BBC News Tiếng Việt hôm 23/9, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn từ Đại học New South Wales (Úc) nói \”Quan điểm cho rằng Úc thu hút nhân tài qua chương trình Đường lên đỉnh Olympia thì có hơi quá và không công bằng cho nước Úc\”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh cũng chia sẻ với BBC: \”Nếu so với số du học sinh hằng năm lên đến cả trăm nghìn người thì 20 người sau 20 năm mà bảo lựa chọn nhân tài cho Úc là quá phóng đại\”.
Theo thống kê của Cục Hợp tác Quốc tế, Bộ GD & ĐT, hiện có khoảng 190.000 du học sinh Việt Nam tại nước ngoài.
Cả nước \’phát sốt\’
Hôm 20/9, sau khi chương trình Đường lên đỉnh Olympia công bố người thắng cuộc, Facebook ngập tràn bình luận. Khen có, chê có, thán phục có, mỉa mai có, nhưng các bình luận dày đặc cho thấy sau 21 năm kể từ chương trình đầu tiên, game show này vẫn được rất nhiều người chú ý.
Năm nay, thí sinh Nguyễn Thị Thu Hằng (Ninh Bình) giành giải quán quân, nhận học bổng toàn phần của Đại học Kỹ thuật Swinburne, một đại học nghiên cứu tại Melbourne (Úc).
Trường này có thứ hạng khá trên thế giới, xếp thứ 63/250 Bảng xếp hạng Đại học trẻ (dưới 50 năm tuổi) 2020 của THE; xếp 351/1.527 trong Bảng xếp hạng Đại học Thế giới 2021 của QS và top 400 năm 2020 của ARWU.
Người thắng cuộc năm nay còn nhận 40.000 USD tiền thưởng, tăng 5.000 USD so với năm trước.
Với hình thức thi thố sôi nổi, gay cấn trong một đất nước có truyền thống coi trọng khoa cử, tranh đua, Đường lên đỉnh Olympia luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt.
Các trường, các tỉnh thành có thí sinh vào chung kết năm thường tập trung học sinh xem trực tiếp để cổ vũ, chẳng khác gì khi đội tuyển bóng đá vào chung kết SEA Games. Thí sinh vô địch được ca ngợi là người mang vinh quang về cho tỉnh nhà, là niềm tự hào của nhà trường, gia đình, thầy cô và bè bạn.
Nhà quán quân bỗng chốc trở thành người của công chúng, nhất cử nhất động của họ trên sóng truyền hình được đưa ra phân tích, mổ xẻ, đôi khi rất gay gắt.
\’Nên nghĩ đến bức tranh lớn hơn\’
GS Nguyễn Văn Tuấn, người gốc Việt đầu tiên trở thành viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Úc, cũng là nhà nghiên cứu loãng xương nổi tiếng trên thế giới với hơn 300 công trình nghiên cứu khoa học được đăng tải trên các tạp chí y khoa và khoa học quốc tế, chia sẻ:
\”Úc có chương trình thu hút nhân tài Global Talent Independent mà tôi từng giúp một số em nghiên cứu sinh gốc Việt tham gia. Nhưng chương trình này không dành cho các thí sinh Đường lên đỉnh Olympia vì các em vẫn là học sinh trung học\”.
\”Theo tôi, giải thưởng của chương trình có thể xem là một trong những tín hiệu về sự thành công tương lai của một cá nhân. Nhưng nhân tài là người có chuyên môn cao, đã thành danh, và khái niệm nhân tài rộng lớn hơn so với giải thưởng trong một game show. Nhân tài thường được đánh giá bởi chuyên gia, đồng nghiệp trong chuyên ngành chứ không phải thông qua một game show đại chúng\”.
\”Việc dành tiền để thu hút nhân tài từ Việt Nam không phải thứ mà Úc ưu tiên. Như trường đại học New South Wale nơi tôi làm việc, mỗi năm có 16.000 du học sinh từ nước ngoài, đa số là Trung Quốc và họ rất tài năng. Chỉ có khoảng 20 người Việt Nam từ chương trình là con số nhỏ, Úc không quá quan tâm\”, GS Tuấn đánh giá.
PGS Nguyễn Hoàng Ánh nhận định: \”Tôi nghĩ đây không hẳn là chương trình lựa chọn nhân tài. Quán quân Đường lên đỉnh Olympia không phải người giỏi nhất Việt Nam, mà là người có thành tích tốt nhất trong số những người tham gia thôi\”.
Ông Tuấn nói thêm: \”Tính chất của game show tập trung vào một số em nhanh trí và thông minh. Nhưng các em này không đại diện cho đa số học sinh Việt Nam. Chúng ta nên quan tâm làm sao đem những kĩ năng cần thiết đến với đa số học sinh, thay vì chỉ tập trung bàn luận về game show. Thắng một cuộc thi mới chỉ là bước đầu\”.
\”Chúng ta cần nghĩ đến bức tranh lớn hơn. Đó là cải cách giáo dục, không chỉ ở bậc đại học mà từ tiểu học, trung học. Tiến sỹ Phạm Đỗ Nhật Tiến từng nói nền giáo dục Việt Nam vẫn đang 1.0 trong khi thế giới là 4.0. Tôi nghĩ đây là vấn đề chúng ta cần chú trọng hơn là những tranh cãi việc gameshow vì nó không đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam trên bản đồ thế giới\”, GS Tuấn nhấn mạnh.
Tư tưởng \’chảy máu chất xám\’ là lạc hậu
Quán quân mùa thứ 6 Lê Vũ Hoàng giải thích anh quyết định tu nghiệp ở Úc một thời gian sau khi tốt nghiệp vì đây là cơ hội để mở rộng kết nối với các nhà khoa học và doanh nghiệp quốc tế, học hỏi thêm công nghệ mới. Úc cũng có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho nghiên cứu tốt hơn trong ngành của anh.
Anh Hoàng chia sẻ với BBC News Tiếng Việt: \”Hiện tại tôi đang có một số dự án liên kết với Việt Nam để đưa công nghệ IoT (internet vạn vật) và AI (trí tuệ nhân tạo), đưa các sản phẩm mà tôi đã làm ra ở đây về phục vụ Việt Nam\”.
Những trường hợp như anh Hoàng khiến nỗi ưu tư \’chảy máu chất xám\’ ở Việt Nam thêm nặng trĩu. Tuy nhiên, GS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng khái niệm này không hẳn thích hợp trong thời toàn cầu hóa.
\”Những du học sinh Việt Nam học ở Úc và được chấp nhận ở lại thì có tác động dĩ nhiên là tích cực lên nước Úc trước tiên. Nhưng họ thành danh ở nước ngoài thì cũng giúp ích cho quê hương Việt Nam không chỉ về chuyên môn khoa học mà còn về kinh tế. Nói là chảy máu chất xám nhưng thực tế thì đôi bên cùng có lợi\”, ông nói.
Theo GS Tuấn, trong thế giới phẳng, một người ngồi ở châu Âu có thể làm việc cho Úc, một người ngồi ở Úc nhưng làm việc cho Malaysia.
\”Tôi nghĩ câu hỏi đáng quan tâm hơn là chủ quyền tri thức thuộc về ai. Nếu một người ở châu Âu mà làm việc cho Úc và có những khám phá mang đến bằng sáng chế thì chủ quyền đó thuộc về Úc. Nói về chảy máu chất xám là nói về mất bản quyền tri thức, chứ con người vẫn ở đó, chẳng mất đi đâu cả\”, ông lý giải.
PGS Nguyễn Hoàng Ánh nhận xét: \”Ở thế kỷ thứ 21 được 20 năm rồi, chắc chỉ có mỗi Việt Nam vẫn trăn trở chuyện người đi du học có trở về hay không. Tư tưởng này quá lạc hậu, nghe như vấn đề của thế kỷ 19\”.
Bà Ánh phân tích thêm: \”Du học sinh ở lại mà thành công thì góp phần quảng bá cho Việt Nam. Nếu các bạn ấy ra thế giới thể hiện Việt Nam cũng không kém gì ai thì đó chính là quan điểm của Bác Hồ về sánh vai với các cường quốc năm châu, nên khuyến khích mới đúng\”.
Xã hội Việt Nam quá khắc nghiệt?
PGS Nguyễn Hoàng Ánh kể: \”Về trải nghiệm cá nhân, tôi sau khi du học về cũng không được chào đón. Ngoài thì nói hoan nghênh nhưng hành xử thì rất nghi kị. Đồng nghiệp lo ngại bọn này có cướp mất công việc hay không. Lãnh đạo thì sợ mình gây cản trở\”.
Bà bình luận: \”Bây giờ xã hội cởi mở hơn, nhưng chúng ta vẫn thấy dư luận ồn ào chuyện du học sinh không trở về, xét nét một cái vung tay ăn mừng của em học sinh 17 tuổi. Khi nhà nước không còn xét nét mà sống với những người đầu óc hẹp hòi như vậy thì quá mệt\”.
GS Tuấn nói thêm: \”Khi về Việt Nam, các bạn gặp những rào cản mang tính văn hóa nhiều hơn là chuyên môn. Họ thường nói với tôi điều kiện làm việc ở Việt Nam không tốt, không được giao công việc đúng chuyên môn. Có người nói bị lúng túng những chuyện \’chính trị văn phòng\’. Có người than phiền không được chào đón mà còn bị đố kị. Tôi biết một vài em về Việt Nam sau đó lại quay trở về Úc vì chịu không nổi môi trường trong nước\”.
\”Sinh viên Việt Nam ở lại Úc, cũng như những sinh viên các nước khác, chủ yếu xuất phát từ điều kiện làm việc và nghiên cứu. Ngoài ra, hệ thống đề bạt và tưởng thưởng minh bạch nên các em rất thích. Ở Việt Nam, dân gian có câu: \’nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ\’. Điều này làm nản lòng nhiều bạn trẻ, ngay cả tôi cũng sẽ nản lòng\”, ông Tuấn nói.
Là người có nhiều hoạt động khoa học, giáo dục, y tế tại Việt Nam, GS Tuấn bày tỏ: \”Những người làm khoa học chân chính như tụi tôi ở nước ngoài, khi về Việt Nam gặp phải một khó khăn: nói thật. Bởi mình không nói thật được, nói thật thì có khi đồng nghiệp tự ái không hợp tác nữa. Nên phải nói kiểu ngoại giao\”.
Bà Ánh đề xuất: \”Tôi nghĩ Việt Nam có thể học mô hình Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình cho rằng đến ngoài 40, nhiều người sẽ quay về nước. Thực tế cho thấy ông đã đúng. Đến năm 2000, Trung Quốc có nhiều chính sách đãi ngộ với người học nước ngoài về\”.
\”Tôi có trao đổi với một anh phó giáo sư của trường đại học nổi tiếng ở Mỹ về lý do về nước. Anh trả lời ở Thượng Hải, anh có những điều kiện tốt hơn, được điều hành một khoa và nguồn quỹ. Với lại, người ngoài 40 hầu như đều mong quay về quê hương, mong có cơ hội đóng góp. Nếu mình cho cơ hội, họ sẽ quay về. Hy vọng Việt Nam cũng nhìn xa như Đặng Tiểu Bình\”, bà Ánh bày tỏ.
Suốt 20 năm nay, GS Tuấn có cả mấy chục công trình nghiên cứu và xuất bản sách tại Việt Nam dù ông sống ở Úc. GS Tuấn bộc bạch: \”Là người Việt Nam thì đi đâu cũng đau đáu nhìn về quê, muốn làm cái gì đó để quê nhà tốt hơn. Nói đến chuyện đóng góp cho quê hương thì tôi nghĩ 100% người Việt đều muốn, dù họ có thể có quan điểm chính trị khác với các bạn trong nước\”.