Danh tướng Đại Việt với tài bơi lội thần kỳ, đục thủng 20 chiến thuyền quân địch
Ngọc Mai | DKN một giờ tới 708 lượt xem
Mục lục bài viết
Vị tướng tài ba Yết Kiêu là một trong 5 mãnh tướng của Trần Hưng Đạo. Với tài bơi lội thần kỳ, ông đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu “Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân”…
Yết Kiêu (1242-1301) là người có công giúp nhà Trần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII. Với biệt tài thủy chiến, ông đã sử dụng tài nghệ của mình để đục thuyền quân xâm lược Nguyên Mông.
Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, quê tại làng Hạ Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Theo Gia phả của Yết Kiêu, cha Hữu Thế làm nghề đánh cá, mất khi ông 8 tuổi. Nhà nghèo nên từ nhỏ Hữu Thế đã sớm phải vật lộn với sông nước để mưu sinh.
Khả năng bơi lội bắt nguồn từ một Thần tích
Khả năng bơi lội khác người của Hữu Thế được cho là bắt nguồn từ mối duyên kỳ lạ của ông với trâu thần. Người dân xã Yết Kiêu lưu truyền câu chuyện, năm 16 tuổi, một đêm thanh vắng, Hữu Thế ra sông gánh nước thấy đôi trâu trắng đang húc nhau chí tử. Ông liền dùng đòn ống đánh đuổi, can ngăn.
Thấy vậy hai con trâu chạy xuống dưới nước rồi biến mất. Ông mới biết đó là hai con trâu thần. Khi sờ lại đòn gánh thấy còn dính vài cọng lông trâu, ông bèn nuốt lấy, từ đó Hữu Thế có tài bơi lặn rất giỏi. Ông lội nước hàng mấy dặm như đi trên đất bằng và thường lặn lội bắt cá, mò trai cả ngày dưới nước. Trong Việt sử giai thoại cũng ghi lại câu chuyện về Hữu Thế có lần lặn 7 ngày 7 đêm dưới nước.
Lặn dưới nước, đục thuyền giặc
Năm 1285, khi quân Nguyên chuẩn bị xâm lược nước ta, nhà Trần đã tổ chức hội thi tuyển chọn người tài ở Vạn Kiếp. Sau hội thi này, Hữu Thế đã chiến thắng Đô Châu, đô vật nổi danh toàn vùng. Cũng bởi vậy mà ông được Trần Hưng Đạo trọng dụng, mời làm gia nô. Đồng thời, tên Yết Kiêu cũng do Trần Hưng Đạo đặt. (Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư, Yết Kiêu là tên loài chó săn ngắn mõm, nói lên địa vị làm “nô”).
Dưới trướng của Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu phát huy được tài năng bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) của mình. Theo ông Vũ Xuân Chiến, thủ nhang đền Quát, trong cuộc chiến chống quân Nguyên,nhiều trận quân ta thắng là nhờ sự mưu trí dũng cảm của Yết Kiêu.
Khi đêm đến Yết Kiêu dẫn quân lặn xuống khu vực tàu thuyền giặc neo đậu, nhẹ nhàng khoan đáy thuyền, khoan đến đâu, dùng giẻ nút lỗ đến đó rồi dùng dây nối các nút với nhau. Chờ quân giặc ngủ say, Yết Kiêu ra lệnh cho mọi người giật dây nút lỗ khoan thuyền địch, thuyền cứ thế mà chìm dần, được nước quân ta kéo đến tiêu diệt sạch quân địch.
Mặc dù có một số dị bản, nhưng nhiều sử sách còn ghi chép lại câu chuyện một mình Yết Kiêu đã đục thủng hơn 20 chiến thuyền của địch, góp phần quan trọng giúp quân Trần phá thủy quân Nguyên Mông.
Có lần, ông không may bị địch bắt. Nhưng bằng trí thông minh và tài bơi lội, Yết Kiêu dụ địch thả ông ra rồi nhảy xuống nước trốn thoát.
Vị tướng lưu danh ngàn đời
Không chỉ giỏi đánh trận, Yết Kiêu còn là người nhân nghĩa, trung thành biết lo nghĩ cho dân chúng.
Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư có ghi chép: Yết Kiêu cùng Dã Tượng là hai gia nô trung thành của Hưng Đạo Vương. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân (trên sông Lục Nam), Dã Tượng đi theo Hưng Đạo Vương. Khi quân Việt thua chạy, thủy quân bị tan cả, Hưng Đạo Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:
– Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không rời thuyền.
Hưng Đạo Vương đến Bãi Tân, quả nhiên chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó, ông vui mừng nói:
– Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi.
Nói xong chèo thuyền đi, kỵ binh Nguyên đuổi theo không kịp. Ý Trần Hưng Đạo muốn nói: chủ tướng tài giỏi, vang danh phần lớn cũng là nhờ những thuộc hạ xung quanh ra sức làm việc, phò tá. Nếu chỉ có một cá nhân mình thì không thể làm nên sự nghiệp lớn.
Sau khi đất nước chiến thắng, vua Trần tổ chức lễ mừng công ban thưởng cho các tướng lĩnh. Vua hỏi: “Tướng Yết Kiêu muốn bổng lộc gì?”.
Ông thưa rằng: “Điều thứ nhất thần xin là bệ hạ ban phúc cho dân ấp Hạ Bì được tự do hành nghề chài lưới từ đầu sông ở thượng nguồn tới cửa sông giáp biển. Thứ hai, bệ hạ ban ơn cho mỗi hộ khi hành nghề ở đâu cũng được sử dụng 3 thước đất phơi chài lưới đồ nghề và kéo sợi quay tơ, ngoài ra thần không xin gì thêm”. Vua Trần khen Yết Kiêu là người nhân nghĩa và ban cho như nguyện. Từ đó, dân làng Hạ Bì làm nghề chài lưới cứ theo các triền sông trải dài sinh sống.
Yết Kiêu tạ thế ngày 28 tháng chạp năm Ất Sửu (1303), thọ 61 tuổi. Khi ông mất, vua Trần cho lập đền thờ ở bờ sông Hạ Bì quê ông, chính là khu vực đền Quát hiện nay – đền Quát thuộc tả ngạn sông Đò Đáy, xã Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hội đền Quát được tổ chức long trọng hàng năm vào ngày 15/8 âm lịch để tưởng nhớ Yết Kiêu. Lễ hội có tục bơi thuyền chải nam, nữ. Tại quê mẹ của Yết Kiêu (làng Lôi Động, xã Tân An, huyện Thanh Hà), ông được tôn là Thành hoàng của làng, nơi đây cũng có đền thờ ông.
Ngọc Mai (tổng hợp)