Sau TT Lincoln và TT Roosevelt, TT Trump sẽ thiết quân luật, bắt giam những kẻ tội đồ tham nhũng và phản quốc?

\"Sau

Cựu cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Donald Trump và tướng quân đội đã nghỉ hưu Michael Flynn đã kêu gọi Tổng thống Trump tạm thời đình chỉ Hiến pháp và tuyên bố thiết quân luật. (Tổng hợp)

Sau TT Lincoln và TT Roosevelt, TT Trump sẽ thiết quân luật, bắt giam những kẻ tội đồ tham nhũng và phản quốc?

 Bình luậnĐông Bắc •  05/12/20

Ngày 2/12, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Donald Trump và là tướng quân đội đã nghỉ hưu Michael Flynn đã kêu gọi Tổng thống Trump tạm thời đình chỉ Hiến pháp và tuyên bố thiết quân luật để quân đội giám sát cuộc bầu cử mới của Hoa Kỳ nhằm “phản ánh ý chí thực sự của người dân”.

Thiết quân luật cho phép quân đội có quyền gạt các chính quyền dân sự sang một bên, các quyết định chính sách lúc này được thực hiện bởi các sĩ quan quân đội chứ không phải là các quan chức dân cử. Những người bị buộc tội sẽ bị đưa ra xét xử trước tòa án binh chứ không tòa án dân sự thông thường. Nói tóm lại, lúc này quân đội nắm toàn quyền.

Nước Mỹ có thể bị tàn phá ở mức độ chưa từng thấy kể từ Nội chiến

Ngày 2/12, Tướng Michael Flynn tweet cùng với bản kiến nghị của tổ chức phi lợi nhuận “We The People Convention” (WTPC) rằng: 

“Tự do không bao giờ quỳ gối, ngoại trừ trước Thiên Chúa”.

Lời kêu gọi thiết quân luật được đưa ra sau khi nhiều kênh truyền thông dòng chính Mỹ “xác nhận” ứng cử viên tổng thống “truyền thông” đảng Dân chủ Joe Biden là “Tổng thống”, trong thời điểm đương kim Tổng thống Trump vẫn tiếp tục theo đuổi các vụ kiện tụng tranh chấp kết quả bầu cử. Các cử tri đoàn đại biểu cho mỗi bang dự kiến ​​sẽ bỏ phiếu bầu tổng thống vào ngày 14/12, trong khi ngày 23/12 là hạn chót công bố kết quả của đại cử tri.

Bản kiến nghị của WTPC cũng đề cập đến những hành động mà Tổng thống Abraham Lincoln đã thực hiện trong cuộc Nội chiến như sau: 

Mặc dù những quyết định đó của Tổng thống Lincoln vẫn còn đang tranh luận cho đến ngày nay, nhưng không thể phủ nhận rằng những hành động của ông đã “cứu nền Cộng hòa”. (Getty)

Bản kiến nghị cũng viết rằng, mặc dù những quyết định đó của Tổng thống Lincoln vẫn còn vấp phải tranh luận cho đến ngày nay, nhưng không thể phủ nhận những hành động của ông đã “cứu nền Cộng hòa”, và là một phần lý do khiến ông được coi là một trong những tổng thống vĩ đại nhất của nước Mỹ (1)

“Trong chiều dài lịch sử, thậm chí cả cựu Tổng thống Obama đã đánh giá Tổng thống Lincoln là Tổng thống vĩ đại nhất của chúng ta, nhưng ít ai vào thời điểm ấy lại có thể đồng ý với các biện pháp mà ông thi hành. Cũng vậy, như lúc này đây, một Tổng thống với lòng dũng cảm và kiên tâm là cần thiết để bảo toàn Liên minh”.

“Ngài cũng phải hành động, giống như Tổng thống Lincoln đã làm, để bịt miệng những tuyên truyền một chiều của các phương tiện truyền thông phá hoại được thiết kế và chứng minh để ảnh hưởng đến kết quả bầu cử, và chấm dứt sự kiểm duyệt bất hợp pháp của Big Tech, để khôi phục niềm tin của Người dân Mỹ vào quá trình bầu cử của chúng ta hoặc chúng ta không thể tiếp tục với tư cách là một quốc gia”.

“Nếu không làm như vậy có thể dẫn đến bạo lực và tàn phá lớn ở mức độ chưa từng thấy kể từ Nội chiến. Thiết quân luật giới hạn rõ ràng là một lựa chọn tốt hơn Nội chiến!”. 

Bản kiến nghị cũng được đăng bởi luật sư Lin Wood và ông đã lập luận rằng nước Mỹ đang trên bờ vực của một cuộc Nội chiến khác.

“@RealDonaldTrump nên tuyên bố thiết quân luật”.Luật sư Lin Wood: “@RealDonaldTrump nên tuyên bố thiết quân luật”. (Wikimedia Commons)

Vậy bối cảnh nào khiến Tổng thống Lincoln phải ban hành Thiết quân luật?

Nhờ áp đặt thiết quân luật, TT Lincoln đã cứu được nền Cộng hòa non trẻ

Trong cuộc Nội chiến Mỹ kéo dài từ năm 1861-1865, Tổng thống Lincoln đã nắm giữ quyền lực nhiều hơn bất cứ tổng thống tiền nhiệm nào trước đó. Ông đã ban hành thiết quân luật và trì hoãn các quyền pháp định trong suốt thời Nội chiến.

Vào ngày 15/9/1863, khi cuộc nội chiến ngày càng diễn biến cam go và phức tạp, Tổng thống Lincoln đã áp đặt thiết quân luật theo ủy quyền của Quốc hội. Đạo luật ủy quyền cho phép Tổng thống đình chỉ Lệnh đình quyền giam giữ có tên là Habeas Corpus (một cơ chế pháp luật bảo hộ quyền nhân thân). 

Để lý giải cho quyết định trên, Tổng thống Lincoln đã viện dẫn Điều khoản về Đình chỉ trong Hiến pháp Mỹ, trong đó nêu rõ “lệnh đình quyền giam giữ sẽ không bị đình lại trừ khi xảy ra nổi loạn và việc đảm bảo an toàn của cộng đồng đòi hỏi việc này”.

Tổng thống Lincoln đã áp đặt lệnh đình chỉ Habeas Corpus, cho phép chính quyền của ông có toàn quyền bắt giữ tất cả tù nhân chiến tranh, gián điệp, hay những kẻ nội gián tiếp tay cho kẻ thù, cũng như áp dụng đối với mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả những người chăn ngựa. 

Tuy nhiên, khi Tổng thống Lincoln áp đặt thiết quân luật, ông đã bị thách thức bởi các thẩm phán tại Tối cao Pháp viện, khi Tòa án ra phán quyết tại Ex parte Milligan, 71 US 2 [1866]  rằng, việc Tổng thống thiết quân luật bằng cách đình chỉ Habeas Corpus là vi hiến.

Sự việc này khởi nguồn từ một “vụ án” khi quân đội bắt giữ, truy tố và kết án tử hình một người đàn ông tên là Lambdin P. Milligan. Một tòa án quân sự được thành lập dưới quyền của Tổng thống Lincoln đã buộc tội ông ta trợ giúp quân đội Liên minh miền Nam.

Các luật sư của bị cáo Lambdin P. Milligan đã dựa trên luật Habeas Corpus, cho rằng việc tòa án quân sự xét xử trong khi tòa án dân sự vẫn tiếp tục thụ lý vụ án là hành động vi hiến. Họ lập luận rằng, bị cáo Milligan không phục vụ trong quân đội Mỹ, không phải là tù nhân chiến tranh, và cũng không sống trong khu vực đang có các cuộc nổi dậy chống lại chính phủ liên bang, nên quân đội Mỹ không có thẩm quyền bắt giữ, xét xử và kết án ông ta. 

Tối cao Pháp viện đã ra phán quyết rằng, chỉ có Quốc hội mới có thể đình chỉ Habeas Corpus, và dân thường không thể bị xét xử ở tòa án quân sự, ngay cả trong thời chiến.  (2)

Phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ kiện này cũng tương đồng với phán quyết của Tối cao Pháp viện cách đó 5 năm, khi ấy vào năm 1861, Tòa án về cơ bản đã ủng hộ phán quyết của Thẩm phán Roger Taney khi ông ta phản đối Tổng thống Lincoln đình chỉ Habeas Corpus. Vì sự nguy cấp an ninh quốc gia, Tổng thống Lincoln đã ban hành thiết quân luật vào ngày 27/4/1861. 

Ngày 25/5/1861, nghị sĩ John Merryman tại nghị viện tiểu bang Maryland đã bị bắt giữ vì tội cản trở quân đội Liên bang miền Bắc hành quân từ Baltimore đến Washington trong cuộc Nội chiến. Ông ta đã bị các sĩ quan quân đội Liên bang miền Bắc giam giữ tại Pháo đài McHenry.Ngày 25/5/1861, nghị sĩ John Merryman tại nghị viện tiểu bang Maryland đã bị bắt giữ vì nỗ lực cản trở quân đội Liên bang miền Bắc hành quân từ Baltimore đến Washington trong cuộc Nội chiến. (Wikipedia)

Luật sư của John Merryman đã ngay lập tức đệ đơn lên Tòa án Liên bang phản đối các cáo buộc, và yêu cầu Tòa áp dụng lệnh Habeas Corpus. Tuy nhiên, Tổng thống Lincoln vẫn quyết định đình chỉ Habeas Corpus, và vị tướng tư lệnh tại Pháo đài McHenry cũng từ chối trao trả John Merryman cho chính quyền miền Nam. 

Chánh án Tối cao Pháp viện khi ấy là Roger Taney đã ban hành phán quyết rằng, Tổng thống Lincoln không có quyền đình chỉ Habeas Corpus và sắc lệnh hành pháp này của Tổng thống là vi hiến. Tuy nhiên, cả Tổng thống Lincoln và Quân đội Liên bang miền Bắc đã phớt lờ phán quyết trên của Chánh án Roger Taney, đã không trả lời, kháng nghị, và cũng không ra lệnh phóng thích John Merryman. Bản thân Quốc hội Mỹ cũng không chống lại quyết định này của Tổng thống Lincoln.

Trong bài phát biểu vào ngày 4/7/1861, Tổng thống Lincoln đã tỏ ra thách thức Tối cao Pháp viện, và khẳng định rằng ông cần phải đình chỉ Habeas Corpus để dập tắt các cuộc nổi dậy ở miền Nam. Tổng thống Abraham Lincoln cũng thừa nhận rằng, việc ông “đơn phương” đình chỉ Habeas Corpus trong Nội chiến đã gây tranh cãi về mặt Hiến pháp, nhưng là quyết định cần thiết để áp dụng bảo vệ tính toàn vẹn của Liên bang” (3)Tổng thống Abraham Lincoln thừa nhận rằng việc ông “đơn phương đình chỉ Habeas Corpus trong Nội chiến đã gây tranh cãi về mặt Hiến pháp, nhưng là cần thiết để áp dụng để bảo toàn Liên bang”. (Getty)

Tổng thống Roosevelt: Cưỡng chế một bộ phận dân chúng gốc Nhật phải vào trại tập trung

8 giờ sáng ngày 7/12/1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công phủ đầu căn cứ hải quân Mỹ tại Trân Châu Cảng trên đảo Oahu (Hawaii) khiến hơn 2.400 lính Mỹ tử trận, cùng nhiều tàu chiến và máy bay bị phá hủy. Một ngày sau, ngày 8/12/1941, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã gọi đó là ngày Ô nhục và đọc Tuyên cáo Chiến tranh, chính thức công bố Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản. 

Tuy nhiên, cuộc tấn công Trân Châu Cảng chỉ là cú mở màn cho một chiến dịch quân sự trải dài trên khắp Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Nhật Bản. Trong những tuần sau đó, Nhật Bản đã tấn công và đánh chiếm Philippines, Thái Lan, Myanmar, Singapore, Hong Kong, Malaya (một phần của Malaysia ngày nay), Đông Ấn Hà Lan (một phần của Indonesia ngày nay) và lãnh thổ Mỹ như đảo Guam, đảo Wake.

Cuộc tấn công Trân Châu Cảng chỉ là cú mở màn cho một chiến dịch quân sự trải dài trên khắp Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Nhật Bản. (Getty)

Với khí thế ngùn ngụt khi ấy, liệu Úc và cả Bờ Tây của Hoa Kỳ có phải là mục tiêu tiếp theo của đế chế phát xít Nhật? Với phần lớn Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đã bị suy yếu hoặc bị vô hiệu hóa sau trận Trân Châu Cảng, viễn cảnh người Nhật tập kích miền Tây duyên hải Hoa Kỳ là một khả năng rất thực tế và khá đáng sợ đối với người Mỹ khi ấy.

Do lo ngại trong số những kiều dân Nhật Bản đang sinh sống tại Mỹ ẩn chứa nguy cơ làm “gián điệp và phá hoại”, ngày 19/2/1942, Tổng thống Roosevelt đã ký ban hành sắc lệnh hành pháp số 9066, ngăn cấm các công dân Mỹ gốc Nhật không được sinh sống ở một số khu vực “quân sự trọng yếu” đối với an ninh quốc gia, và thiết lập các trại tập trung cho người Mỹ gốc Nhật trên toàn nước Mỹ. 

Lệnh cưỡng chế này được phổ biến tới toàn bộ công chúng Mỹ. Toàn bộ người Mỹ gốc Nhật (thuộc thế hệ di dân thứ nhất không có quốc tịch Mỹ cũng như có hai quốc tịch) cư ngụ dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ (gồm các tiểu bang California, Washington, Oregon cho đến phía nam bang Arizona) đều phải di dời khỏi nơi cư trú để vào sinh sống trong các khu tập trung do chính phủ Mỹ lập ra cho đến khi nào chiến tranh kết thúc. Kết quả của sắc lệnh này khiến hơn 110.000 người nhập cư Nhật Bản và công dân Mỹ gốc Nhật bị buộc phải rời bỏ nhà cửa, tài sản… để đến các trại tập trung. 

Vào ngày 20/8/1942, quân đội Mỹ ở Honolulu (Hawaii) đã bắt giữ một người đàn ông tên là Harry White. Anh ta là một nhà môi giới chứng khoán, không phải một quân nhân, và cũng như cơ sở kinh doanh của ông ta không có bất kỳ mối liên hệ nào với các lực lượng vũ trang. Ngay cả tội danh cáo buộc ông ta đã biển thủ tiền của một khách hàng là thuộc phạm vi của luật dân sự, không phải quân sự, nhưng vào năm 1942, thì không có sự vụ gì ở Hawaii được coi là bình thường cả. 

Bởi quần đảo Hawaii đang trong tình trạng Thiết quân luật. Các tòa án dân sự ở đây bị đóng cửa và thay thế bằng các tòa án quân sự. Các quy tắc quản lý cuộc sống hàng ngày không còn do cơ quan lập pháp dân cử nữa, mà do người đứng đầu quân đội đặt ra. Quân đội kiểm soát mọi mặt của đời sống người dân trên quần đảo này, xử lý từ tư pháp hình sự cho đến các những sự vụ hành chính “vụn vặt” như đậu xe và dọn rác ven đường…(4)

Bài Liên Quan

Leave a Comment