2020 là một năm cám cảnh của báo chí Việt Nam
Thứ Hai, 28 Tháng Mười Hai 2020
Công bằng mà nói, chừng nào còn có Ban Tuyên giáo ở đó đòi chỉ đạo đường lối của mọi tờ báo trên khắp đất nước, báo chí Việt Nam khó mà có một ngày vui. Nhưng ngay cả khi xét trong bối cảnh chật hẹp đó, 2020 vẫn là một năm đặc biệt u ám.
Tôi nghĩ chữ cám cảnh chắc là phù hợp để mô tả hiện trạng này.
Cám cảnh, theo từ điển tiếng Việt thông dụng, có nghĩa là “chán ngán vì cảnh ngộ buồn thảm”. Từ này cũng được dùng khi nói về tình cảnh gì đó khiến ta động lòng thương xót. Chữ này xuất hiện trong thơ ca, chẳng hạn “Cám cảnh khói mây mờ mặt biển” (Tản Đà) hay “Vân Tiên cám cảnh lòng thương” (Nguyễn Đình Chiểu).
Vậy, khi tôi nói rằng báo chí nước ta năm qua thật là cám cảnh, ý tôi là cảnh ngộ báo chí Việt Nam năm 2020 chán ngán một cách đáng thương.
Chuyện đáng thương thứ nhất là về mặt chính sách. 2020 là “deadline” đầu tiên của Quy hoạch Phát triển và Quản lý Báo chí Toàn quốc đến năm 2025. Theo đó, đến hết năm 2020, mỗi tỉnh/ thành, mỗi bộ ngành, làm sao thì làm, chỉ còn được phép có tối đa một cơ quan báo và một cơ quan tạp chí (trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh được cho nhiều thời gian hơn). Các tổ chức xã hội – đại diện cho khu vực xã hội dân sự – thì không được làm báo nữa, mà chỉ được làm (tạp) chí.
Điều này có nghĩa là hàng trăm cơ quan báo chí đang tồn tại sẽ bị bức tử. Điều đáng nói là quyết định này dựa trên lệnh áp từ trên xuống, theo kiểu “quân xử thần tử” chứ không phải dựa trên chất lượng hoạt động của cơ quan báo chí đó.
Bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu trước Quốc hội là sẽ “hoàn thành 100% quy hoạch” trong năm 2020. Các tờ báo của nhà nước đưa tin rằng các cơ quan báo chí không chỉ nghiêm túc tự giác dừng hoạt động mà còn xem đó là một sự kiện “có ý nghĩa”.
Cám cảnh đến thế có vẻ vẫn chưa đủ. Đầu tháng 12, chính phủ ban hành Nghị định 119/2020/NĐ-CP thay cho Nghị định 159/2013/NĐ-CP, tăng mức xử phạt vi phạm trong hoạt động báo chí lên gấp nhiều lần. Hành vi “hoạt động không đúng tôn chỉ mục đích ghi trong giấy phép” trước kia chỉ bị phạt tối đa 20 triệu đồng, giờ có thể bị phạt lên đến 70 triệu đồng nếu như gây ảnh hưởng “nghiêm trọng”. Hành vi đưa tin sai sự thật gây ảnh hưởng “nghiêm trọng” trước đây có mức phạt tối thiểu là năm triệu đồng, giờ theo nghị định mới là 50 triệu đồng, tăng hẳn 10 lần. Hành vi đưa tin sai sự thật gây ảnh hưởng “rất nghiêm trọng” trước kia có mức phạt tối đa là 30 triệu đồng, giờ theo nghị định mới đã thành 100 triệu.
Điều đáng nói là định nghĩa thế nào là “sai tôn chỉ” hay “sai sự thật”, đánh giá thế nào là “nghiêm trọng” hay “rất nghiêm trọng”, lại tùy cơ quan thực thi quyết định. Thử đặt mình vào vị thế một tòa báo trong nước, trước tình cảnh đó, không khó để tưởng tượng lựa chọn khôn ngoan của họ là phải bớt nói lại.
Chuyện đáng thương thứ hai là về sự đàn áp có chiều hướng gia tăng của chính quyền đối với các nhà báo độc lập nói riêng và những người bất đồng chính kiến nói chung.
Liên tục vào tháng Năm và tháng Sáu năm nay, hai thành viên của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN) là Nguyễn Tường Thuỵ và Lê Hữu Minh Tuấn bị bắt, sau khi chính quyền bắt giữ ông Phạm Chí Dũng, chủ tịch của hội này vào cuối năm ngoái. Đến đầu tháng Mười, chính quyền bắt Phạm Đoan Trang, một trong những nhà báo độc lập có ảnh hưởng nhất Việt Nam, đồng sáng lập viên và biên tập viên của Luật Khoa tạp chí. Và chỉ mới cách đây hơn một tuần, Trương Châu Hữu Danh, thành viên của Báo Sạch – một dự án báo chí độc lập nổi bật trong thời gian gần đây, cũng bị công an xét nhà, tịch thu tư liệu, và bắt tạm giam. Tất cả họ sẽ sớm bị xét xử vì đã dám nói những điều mà nhà nước “không cho phép”.
Thử đặt mình vào vị thế của một sinh viên báo chí sắp ra trường, trước tình cảnh đó, không khó để tưởng tượng lựa chọn khôn ngoan của sinh viên ấy phải là “chạy ngay đi”.
Chuyện đáng thương thứ ba, thật ra là đáng giận nhiều hơn, là cái cách mà báo chí trong nước đưa tin về những vụ án quan trọng trong năm 2020. Tôi không nói đến VTV hay báo Công an Nhân dân; họ là cái miệng của chính quyền, tôi không xem họ là báo chí. Tôi muốn nói đến những tờ báo đã từng là niềm hy vọng về một nền báo chí chuyên nghiệp.
Niềm hy vọng ở họ, nơi tôi, giảm sút đi nhiều khi nhìn vào cách họ đưa tin về vụ đụng độ giữa chính quyền và người dân ở Đồng Tâm. Họ đưa những bản tin giống hệt nhau theo chỉ đạo là một chuyện. Chuyện này khó tránh trong một vụ việc bị chỉ đạo quyết liệt, nếu như các tờ báo muốn tiếp tục tồn tại. Chuyện đáng xấu hổ hơn là họ dường như đã quên hết các quy tắc đạo đức và nghiệp vụ khi đưa tin vụ án.
Giữa lúc phiên tòa Đồng Tâm còn đang diễn ra, họ mau mắn kết tội các bị can là “cop killers” (kẻ giết cảnh sát), là “chủ mưu vụ án”. Họ gọi vụ án không phải là cuộc đụng độ giữa hai phía, mà là “vụ tẩm xăng thiêu chết ba chiến sĩ công an”, tức là gián tiếp kết tội người dân. Họ bỏ qua những mâu thuẫn hiển hiện trong cáo trạng. Họ không cho bất kỳ thân nhân bị cáo nào cất tiếng nói.
Vòng vây kiểm duyệt sớm hay muộn cũng sẽ làm xói mòn các chuẩn mực báo chí. Tôi thấy ở đây những bằng chứng đáng buồn. Thử đặt mình vào vị thế một độc giả còn nặng lòng với báo chí Việt Nam mà suy xét, trước tình cảnh đó, lựa chọn khôn ngoan của bạn đọc ấy chắc sẽ là bỏ đọc báo, tắt tivi, thôi khỏi nói chuyện chính trị làm gì.
Chuyện đó chẳng phải là hết sức cám cảnh cho đất nước hay sao?