Em mãi nguyện cầu – Đồi Bắc
Thứ Bảy, 31 Tháng Bảy 2021
Đồi Bắ
Lời người viết: Trong đời lính, tác giả không tham gia nhiều trận đánh, càng không có những chiến tích lẫy lừng, ngoại trừ một lần bị thương vì rơi vào phục kích tại Trí Đao, Kon Tum khi làm trung đội trưởng, và lần sau, tác giả phải lên trực thăng một mình, lủng lẳng trên vai chiếc ba lô, với một lệnh ngắn ngủi: thay thế một một đại đội trưởng khác tại mặt trận, chiếm một mục tiêu đã mất bằng bất cứ giá nào với quân số một đại đội chỉ vỏn vẹn 46 người, không một sĩ quan nào khác, ngoại trừ tác giả, một trung úy, khóa 20 VBQGVN. Muc tiêu là ngọn đồi không tên, mà bình thường, khi không có chiến tranh, nhiều cặp tình nhân vẫn hay ngồi thủ thỉ, vì dưới chân đồi là một thung lũng thật đẹp
Tiếng chim se sẻ đuổi nhau ríu rít, Hoàng chợt tỉnh giấc, không nhớ là mình đang ở đâu, sau mấy ngày mệt mỏi vì thiếu ngủ và lo lắng, vì lệnh tái chiếm lại một phần thành phố, mà Việt Cộng đã chiếm trong khi dân Dalat mải lo chuẩn bị đón xuân. Chiến tranh thật sự xảy ra tại thành phố an lành, nơi Hoàng đã được sinh ra, lớn khôn, được đi học, nơi Hoàng chỉ cần nhắm mắt cũng hình dung được từng dãy phố, từng tên đường. Chiến tranh khắp nơi trong nước, do Việt Cộng vi phạm hưu chiến đầu xuân.
Hoàng hé mắt nhìn, mấy cành hoa anh mai hồng mang Hoàng về thực tế. Dalat, Hoàng thầm nhắc, mình đang nằm tại một góc hiên nhà của khu Marie Curie, trường nữ nổi tiếng của thành phố Dalat. Nơi đây mấy cô học sinh nói tiếng Pháp, mặc Jupe, nơi con nhà giàu từ Saigon, từ mọi nơi lên học, nơi hàng năm có hội chợ, gây quĩ từ thiện của mấy bà soeur, nơi du khách viếng thăm mấy dãy nhà cổ kính và những vườn hoa đẹp nhất tại thành phố.
Hoàng không ngồi dậy, vẫn nằm gối đầu trên chiếc ba lô, nhìn trời xanh, ngắm ánh nắng buổi sáng êm dịu, hưởng từng cơn gió thật mát, trong khi máy C 25 sè sè bên tai. Chàng mừng thầm, chiến tranh không xóa được vẻ duyên dáng của Dalat. Mấy cây hoa Mai, gần chỗ Hoàng nằm còn trĩu nặng hoa. Màu hồng nhạt của hoa thật khó kiếm ở các thành phố khác. Một vài trái mai non chưa chín đỏ đã bắt đầu tô điểm, làm đẹp thêm cành mai. Hoa Mai là hình ảnh của mùa Xuân, không chỉ mùa xuân Dalat, mà mùa xuân của khắp nước. Không biết hoa Mai từ đâu tới nhưng Hoàng thấy khi còn nhỏ, chỗ nào cũng có, không biết ai trồng nhưng thường nằm hai bên đường. Dalat có 4 loài hoa, không tìm thấy ở đâu, từ nam chí bắc:
Hoa Mimosa, tượng trưng cho sự quí phái, với màu vàng lạt, nhẹ nhàng và phấn nhung, sẵn sàng rơi rụng trên mấy chếc áo len của một vài du khách. Một vài cặp tình nhân ngơ ngác, bất ngờ khi thấy hoa lạ khi đang dìu nhau đi bên cạnh hồ Xuân Hương, hay những con đường đẫn tới sân cù, hay viện đại học.
Hoa Pensé với màu sắc rực rỡ, rất nhiều màu. Du khách thường mua mang về trang điểm trong phòng tại khách sạn.
Hoa Corico, màu hồng tím, cánh hoa to, tượng trưng cho những buổi dạ vũ, cho màu áo hay ánh đèn của vũ trường, của những vũ công trong bản nhạc Paso mở đầu cho buổi dạ vũ.
Còn nữa, còn một loài hoa dại, màu tím, cánh nhỏ, có tên thật hay là hoa Forget me not, mọc chen chúc trên những mảnh đất hơi ẩm nước. Chỉ cần mấy phút dừng chân, du khách có được một bình nho nhỏ về phòng, bầy ngay bên thành cửa sổ.
Hoàng không những vui vì thấy mấy cành hoa nở đẹp, mà còn vui khi mới gặp lại Sang. Hai ngày hành quân tại khu phố này, Hoàng không an tâm vì không biết gia đình mình ra sao, cũng không tới tìm Sang được. Hoàng nhớ khu phố này có Trâm, bạn Sang, nhưng nhà Trâm đóng cửa cả ngày. Không ngờ Trâm thấy Hoàng, lật đật chạy báo cho Sang. Sang tới ngay gần khu hành quân, viết vội vàng trong mảnh giấy, nhờ một người lính trao cho Hoàng “Em ở nhà Trâm, anh tới được không?“ Chỉ cách vài trăm thước, nên Hoàng tới ngay, ăn được một bữa cơm với Sang và Trâm, nhận một gói mứt gừng, vài miếng kẹo đậu phụng, món ăn Hoàng thích nhất trong mấy ngày tết. Hôm qua, trước khi Sang về nhà ở ngay phố Duy Tân, Sang nói,
– Em vẫn biết lính khổ, đầy hiểm nguy, nhưng em không nghĩ tới mức như thế này. Từ nhỏ tới giờ, lần đầu tiên, em mới nghe súng nổ nhiều như thế. Dalat có bao giờ thế này đâu anh nhỉ? Đêm 30, nghe tiếng súng khắp nơi, em vẫn còn nghĩ là tiếng pháo. Chỉ tới khi nghe tiếng súng lớn, và nghe đài báo, dân chúng không ra khỏi nhà, em mới tin là Việt Cộng đánh vào thành phố mình. Em nghĩ tới anh, không biết giờ này anh ở đâu? Chắc anh vẫn ở Pleiku. Mỗi tiếng súng làm em lại giật mình. Em nhớ một lần anh nói, lính của anh chỉ ở chỗ nào có tiếng súng, có đánh nhau lớn. Thành phố nào cũng có đánh nhau, làm sao anh về đây được. Vậy mà không ngờ, anh về thật. Mới đầu Trâm nói với em, “Sang ơi, tao thấy anh Hoàng đang ở gần nhà tao với lính của anh”. Em không tin. Trâm nói, “Thật mà, tao đâu có thì giờ để chạy tới nói xạo. Tao còn phải mang gạo lên khu lánh nạn tại trường Bùi Thị Xuân.” Cuối cùng em và Trâm chạy lên, và gặp anh.
Hoàng mừng hơn nữa vì Sang cho biết nhà Hoàng không sao cả, không có cả tiếng sung; và ba má Hoàng cũng ở khu tập trung tại viện đại học.
Mấy ngày đầu khi vừa nhận lệnh tái chiếm Dalat, cả tiểu đoàn trải dài trong từng căn phố, và những nhà cạnh đường Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, khu Mả Thánh. Việt Cộng không nhiều nhưng đóng chốt nhỏ, vì thế tiểu đoàn 11 không dễ dàng tấn công, một phần không dám bắn bừa bãi như trận chiến trong rừng. Đơn vị Hoàng đã được huấn luyện kỹ về tấn công thành phố, áp dụng chiến thuật phân tán mỏng, nhưng cũng không đúng với sở trường của đơn vị biệt động quân, đánh nhanh, rút gọn, tái chiếm mục tiêu đã mất, để giao lại cho đơn vị diện địa của địa phương. Hơn nữa, về đêm, Việt Cộng lại tăng cường tiếp tế, đạn dược và lính mới. Mỗi ngày phải tiêu diệt một bọn mới, chiến trường cứ dây dưa. Nhiều tên lính VC chưa tới tuổi trưởng thành cũng bị đưa vào trận. Khi mấy đại đội bắt được một hai tên lính địch, bọn chúng còn khóc sụt sùi khi bị bắt ngồi riêng biệt chờ đưa đi thẩm vấn lấy tin tức. Chúng đói vì không có dân tiếp tế. Dân Dalat không quen chiến tranh, căm thù bọn giặc đỏ này nên khi chúng lợi dụng ngưng bắn tết, tấn công ngay đêm 30, dân đã đóng cửa, bỏ nhà, tập trung tới mấy trung tâm lánh nạn như trường Bùi Thị Xuân, Viện Đại Học. Họ chỉ trở về nhà để lấy gạo, mắm rồi đi ngay.
Một tên VC đã nói với Hoàng và đại úy Đàm, tiểu đoàn trưởng mới thay thiếu tá Huân, “Khi vào tới thành phố, dân chúng sẽ đón tiếp và cho ăn uống đầy đủ.” Hoàng bật cười, lúc nào cũng một câu cũ rích như vậy mà vẫn có người tin. Hoàng không trách những tên này khi chúng từ bắc vào, nhưng Hoàng căm giận những tên du kích tại mỗi địa phương, vì chúng thấy rõ hàng ngày, dân miền Nam ghét chúng như thế nào, mà vẫn theo du kích. Khi bắt được một hai tên du kích, chờ giải giao lên phòng II, đôi khi Hoàng đối xử với cộc cằn với chúng. Hoàng biết, đối xử như vậy không đúng với tiêu lệnh của quân đội, nhưng chiến tranh nào không tàn ác, Hoàng thấy đối xử như vậy là quá tốt rồi, chúng đối xử với tù binh khi mình bị bắt còn tàn ác gấp trăm lần.
Nhìn đồng hồ, hơn 7 giờ sáng, nhớ Sang hứa mang thức ăn lên nhà Trâm, chỉ cách chỗ Hoàng nằm khoảng 300 thước, Hoàng lật đật dậy rửa mặt đi một vòng khu đóng quân, nhắc nhở canh gác. Hoàng vừa quay lại ngồi gần mấy máy truyền tin, một người lính đưa Hoàng mảnh giấy nhỏ, viết vội vàng, “Anh, em ở nhà Trâm. Ký tên S“. Hoàng lấy chiếc mũ đi rừng đội lên đầu, dặn hờ người truyền tin,
– Hoàng Mai có hỏi tôi, anh nói Tài (người tài xế của Hoàng), xuống nhà ngày hôm qua, gọi tôi. Vừa nói Hoàng vừa chỉ tay về phía nhà của Trâm, sơn xanh, cửa sổ trắng,
Hoàng cẩn thận đưa số nhà cho người lính, rồi bước vào nhà Trâm. Hai cô đã ở đó. Xe đạp của Sang, màu tím, xanh đang dựng ngay bên hiên nhà, Sang mặc đơn giản, quần jean, áo sơ mi ngắn, thêm chiếc áo khoác ngoài. Hoàng hỏi,
– Trâm, nhà em không có ai ở nhà ư?
Trâm cười,
– Nhà em không có ai hết. Thường thì ba em về, nhưng hôm nay, vì Sang tới nên em về.
Hoàng nhìn Sang,
– Sao em tới sớm thế?
Sang vui vẻ,
– Vậy là trễ lắm rồi, đáng lẽ sớm hơn nữa. Mấy bữa nay mất ngủ, biết anh đang hành quân tại đây, mỗi khi nghe một tiếng súng lớn em lại thót người. Đêm hôm qua, em lên gác thượng. Anh nhớ gác thượng nhà em không không?
Hoàng cười,
– Sao không nhớ. Anh còn nhớ lần đầu tiên ngồi với em, trời sáng trăng lành lạnh. Anh và em phủ ngang người chiếc khăn len. Em cứ quàng tay ngang người anh, anh phải hất tay em ra hoài.
Sang nói, cố ý cho Trâm nghe,
– Anh nói không đúng rồi. Anh đòi lên gác thượng, rồi đòi… Nói tới đây Sang, nói thật nhỏ. Quàng vai em, đòi hôn em. Em đẩy ra, nhớ không?
-Anh nhớ ngược lại. Hoàng làm bộ ngơ ngác.
Sang lấy tay ghì vai Hoàng xuống,
– Anh nhớ khôn không à. Nhưng cũng không sao, thì em hôn anh, có sao đâu?
– Thì đâu có sao, có trăng thôi. Hoàng lại cười.
Sang lại nghiêm mặt, ra vẻ trang trọng,
– Mỗi lần nghe tiếng súng, em lại thầm cầu nguyện cho anh, cho lính của anh, không đi đâu hết. Đơn vị anh đóng ở đây hoài, để em gặp anh hoài.
Hoàng nhìn Sang,
– Anh cũng cầu nguyện, và mọi người dân của miền Nam đều cầu mong như vậy.
Trâm ngắt ngang câu chuyện, nói với Sang,
– Thôi, cô Sang ơi! Ra phụ mang rau và giá sống lên bàn kẻo hủ tíu nguội hết rồi, ăn xong, chút nữa tôi phải đi công việc. Nhờ Sang, và anh Hoàng giữ nhà, tha hồ mà cầu, mong.
Hai cô bạn thân dọn chén bát xong, cả ba kéo ghế ngồi, Sang nói,
– Anh biết sáng nay em phải chờ mua hủ tíu thật sớm. Mấy ngày nay hàng quán đóng cửa hết trơn, em nôn muốn chết.
Vừa nói Sang vừa lăng xăng sắp giá trụm và rau thơm lên bàn. Trâm nói,
– Con Sang cho anh em mình ăn hủ tíu khô anh à.
– Mấy ngày nay. Sang nói theo, hàng quán đóng cửa vì đánh nhau, nên em phải mua hủ tíu ngay cạnh nhà mình. Em vừa chờ, vừa hối, Mua cho anh 2 tô đó.
Vừa nhìn mặt Hoàng, Sang hỏi,
– Anh không ngủ nhiều hay sao mà cặp mắt sụp như vậy?
Hoàng thật tình,
-Sao ngủ cho yên. Suốt đêm, lúc thức, lúc ngủ, thêm tiếng chó sủa tứ tung, anh phải thức giấc hoài, nhất là lại ngủ ngay tại Dalat, quê mình. Ngủ trong rừng vậy mà yên hơn, không có tiếng chó, tiếng gà.
Trâm vừa kéo ghế ngồi vừa lắng nghe câu chuyện, thỉnh thoảng cũng góp ý, Trâm nói,
– Sang à, hôm đầu tiên, lính anh Hoàng ở ngay nhà tao. Khi tao từ nơi lánh nạn Bùi Thị Xuân về, thấy hai ông lính, nằm ngay góc hè. Một ông ngồi cầm súng chăm chăm nhìn ra ngoài, tao hết hồn, đứng xớ rớ, không dám mở cửa. Đêm hôm trước, khi tao đi, cả phố đâu có bóng dáng người lính nào. Tao ngẩn ngơ, đứng ngay gần cửa, cầm chìa khóa mà run lập cập. Người lính hỏi tao, “Nhà cô hả?” Tao dạ, rồi hỏi lại, “Em vào nhà em một chút thôi, được không?” Người lính cười, “Nhà cô thì cô vào chứ. Rồi anh ta còn châm chọc. Cô đừng vào nhà người khác là được rồi.”
Tao nghe không rõ, lập lại, “Không nhà em đây mà.” Nói vậy mà run, lúng túng mãi mới tra được chiếc chìa khóa vào cửa. Cũng chưa xong, tao mở cửa sau nhà, tính ra bể nước, lại hai ông lính nằm tuốt đàng sau, ngay gần cây thu đủ. Tao vội vàng đóng cửa, lật đật vào nhà, lấy gạo, quên cả chai nước mắm và gói đậu phụng, bước ra khỏi nhà. Tao cảm ơn anh lính. Anh ta cười, nói với người bạn, “Mấy cô gái Dalat sao hiền quá, về nhà mình mà khép nép, thấy muốn tội nghiệp”.
Sang hỏi Trâm,
– Sao mày không kêu tao liền?
– Kêu gì, lính nào cũng giống lính nào, biết có phải lính của anh mày đâu mà gọi.
Sang hỏi dồn Trâm,
– Mày không biết lính anh Hoàng mang bảng màu đỏ ư?
Trâm nhìn Hoàng,
– Anh thấy người đẹp của anh chưa? Nó làm như ai cũng phải biết tiểu đoàn anh mang màu gì nũa. -Mày phải biết đi là vừa, rồi ra vẻ rành rọt. Biệt Động Quân ở Pleiku có 3 màu, anh Hoàng màu đỏ, 22 màu xanh, 23 màu tím. Sang cười.
Sang hỏi Hoàng,
– Anh về Dalat hôm nào? Sao không báo cho em biết ngay? Nếu con Trâm không thấy anh, chắc tới hôm nay, em vẵn nghĩ anh còn ở Pleiku. Hoàng chậm rãi,
– Anh về tới phi trường Cam ly lúc 12 giờ khuya, đi họp tại Palace lúc 1 giờ, về tới xóm này lúc gần 5 giờ sáng. Trâm gặp mấy người lính của anh ngay sáng hôm đó. Anh quên khuấy là nhà Trâm ở đây. Nếu nhớ, chắc anh về ngủ ngay hè nhà Trâm rồi. Trâm nói,
– Anh mà ngủ ngay nhà em, em giao nhà cho con Sang giữ, em ở Bùi Thị Xuân luôn.
Sang nguýt Trâm,
– Tao giữ nhà tới tối là cùng. Ở lại đây cả đêm, chắc không được với ông ba tao rồi.
Trâm còn hỏi tiếp,
– Anh đi bằng gì tới Dalat? Khi anh đi, anh có biết mình đi Dalat không?
Hoàng chưa trả lời, quay lại nhờ Sang pha cho một ly cà phê, rồi trả lời Trâm,
– Anh vừa đánh xong ngay thành phố Pleiku, thì có lệnh đi tiếp, lần này ra phi trường chờ đi xa, anh phải đi máy bay sau cùng, chẳng biết đi đâu, cho tới khi máy đáp xuống phi trường Cam Ly, anh mới biết mình về Dalat.
Sang nhìn Hoàng,
– Đời lính như phim trinh thám vậy. Hôm qua biết anh đánh nhau ở đây, em càng lo hơn, mỗi tiếng súng lớn lại làm em sốt ruột, em cũng không ngủ được. Sang chép miệng. Ai mang chiến tranh tới làm gì, khổ ơi là khổ.
Ly cà phê vừa pha xong, Sang đưa cho Hoàng. Sau khi uống một hớp nhỏ, mùi thơm ngạt ngào, Hoàng khen “cà phê ngon quá”. Sang hãnh diện, – Tất nhiên rồi, em pha mà không ngon thì ai pha ngon nữa. Tuy vậy, Sang cũng còn châm chọc. Nhưng chắc gì ngon hơn cà phê Dinh Điền, Pleiku phải không?
Với Trâm, Sang nói,
– Anh Hoàng đi đâu cũng khen cà phê Dinh Điền ngon lắm, cô bán hàng đep lắm.
Trâm về phe với Sang,
– Em không tin rồi, cà phê Dalat ngon hơn. Còn cô Sang mà anh không khen thì khen ai nữa. Anh Hoàng không gallant chút nào hết.
Vừa ăn vừa nói chuyện, hai cô bé vừa bàn chuyện chuẩn bị bữa trưa. Chợt tiếng gõ cửa, Tài hiện ra trước cửa. Khi Hoàng bước tới gần, Tài nói,
– Alpha về tiểu đoàn ngay, Hoàng Mai gọi. (Hoàng Mai, tên danh hiệu truyền tin, đại úy, khóa 16 võ bị, mới nhận tiểu đoàn được khoảng một tháng thì tiểu đoàn có lệnh đi Pleiku.)
Sang mặt tiu nghỉu, hỏi Hoàng,
– Anh phải đi hả?
– Anh phải về tiểu đoàn, có lệnh. Hoàng nhìn Sang, hơi ái ngại, rồi dặn hờ. Anh về. Nếu không có gì, anh trở lại ngay. Nếu bận, anh sẽ cho người mang thư cho em biết.
Sang bất đắc dĩ phải nghe, kéo Hoàng ngồi trên chiếc ghế,
– Thì anh ngồi một chút nữa hãy đi.
Trâm biết ý, an ủi,
– Thôi mày để anh Hoàng đi. Anh đi đi, em và Sang chờ.
Sang nắm tay Hoàng, theo ra cửa, dùng dằng không muốn buông tay. Hoàng biết ý, nói nhỏ,
– Em vào nhà đi.
Sang không để ý tới người lính, kéo vai Hoàng sát vào người mình, hôn nhẹ vào má Hoàng, nói như khóc,
– Em luôn cầu nguyện cho anh.
Hoàng hơi buồn, thẫn thờ bước ra cánh cổng, ngay dưới dàn hoa giấy màu tím.
Hoàng bước chân vào căn nhà trống của trường Marie, căn nhà tạm dùng cho bộ chỉ huy, thì thấy Hoàng Mai, ngồi trên chiếc ghế, bên cạnh là Huấn, sĩ quan truyền tin. Sĩ quan ban Hai cũng có mặt. Đại úy Đàm hỏi ngay,
– Cậu có rành khu vực đại đội Hai của Trung úy Đa, và đại đội Một, trung úy Nguyên đóng quân không?
Hoàng nhanh nhẩu,
– Rành chứ Hoàng Mai. Đại đội Hai đóng gần ngọn đồi nhỏ không tên cạnh nhà lầu chín triệu, và trường Đa Nghĩa. Đại đội Một đóng bên kia đường, song song với đại đội Hai, nhìn xuống thung lũng, trồng rau, nhìn sang phía đông là trường Đa Thành. Hồi nhỏ tôi học lớp Tư, lớp Năm trường này.
– Nhà lầu chín triệu, tên gì lạ vậy? Đại úy Đàm cười.
– Phía bắc là dòng chúa Cứu Thế, còn phía tây là làng Kim Thạch, nối liền về phi trường Cam Ly. Hoàng nói tiếp.
Đại úy Đàm chậm rãi,
– Ngọn đồi không tên không cao lắm, và ít cây, có thể phục kích được không?
– Ai phục kích? Hoàng hỏi. Mình phục kích thì không được, vì cạnh đường nhựa phía đông, và một xóm nhỏ, ít nhà, toàn vườn trồng rau, chạy cả cây số về phía tây. VC có thể dùng làm đường tiến sát, đưa quân vào ban đêm, nhưng không thể đi ban ngày, vì dân còn làm vườn và tưới rau. Hơn nữa, mình luôn có L19 bao vùng. Tôi không nghĩ chúng nó đưa quân vào ban ngày.
Đại úy Đàm hỏi,
– Hôm qua, trung úy Đa có cho trung đội nào lục soát ngọn đồi không tên này không?
Hoàng trả lời,
– Có, mỗi ngày, trung úy Đa đều cho người lên, nhưng không thấy gì lạ cả.
Hoàng nhìn Huấn, Huấn chỉ im lặng, cuối cùng, đại úy Đàm nói,
– Đại đội Hai vừa báo cáo, trung đội lục soát ngọn đồi không tên, vừa bị phục kích, chết mất 6 người, tất cả còn nằm gần trên đỉnh đồi, chưa lấy được xác.
Hoàng gục đầu xuống cánh tay. Sáu mạng người trên ngọn đồi, chẳng ai nghĩ là nguy hiểm, vì họ có thể nhìn thấy từ chân đồi, nếu có người lom khom, bò hay chạy. Chỉ trừ là bọn chúng lên đồi đào hố từ ban đêm, núp sẵn ở đây. Hoàng biết ngọn đồi này từ khi còn nhỏ. Đồi chỉ có 3 cây thông trơ trọi, cỏ trên đồi không cao tới mắt cá chân. Nhiều lần, Hoàng và bạn bè lên những hố nhỏ này chơi. Nhiều dân Dalat kể lại, những hố này do quân Nhật đào từ khi đang đánh nhau với quân Đồng Minh. Ai ngờ, hôm nay đồng đội Hoàng chết vì hàng loạt súng, mặt còn hướng lên đồi, khi sắp lên tới đỉnh đồi.
Nghe đại úy Đàm nói xong, Hoàng biết một ngày mới lại bắt đầu, chắc chắn, khó khăn hơn và không chừng nguy hiểm hơn. Tiểu đoàn sắp chiếm lại ngọn đồi đã mất.
Mới hôm qua Hoàng và Huấn, vừa uống cà phê buổi chiều vừa nói chuyện ra phố Dalat, Huấn muốn ghé nhà Thủy Tạ. Hoàng thì muốn về thăm nhà, và ghé trường Bùi Thị Xuân, thăm vài gia đình còn ở đó, lánh nạn cộng sản. Họ ngủ ở trường về đêm, ban ngày về thăm nhà, thay quần áo, mang thêm thức ăn như Trâm. Nhiều người phải xuống vườn tưới rau. Khổ nhất là những người có vườn dâu tây đang rộ trái, hay mấy vườn hoa. Đường đi Sàigon bị đứt, hoa không biết bán cho ai. Thật khổ.
Hoàng không ngờ, hôm nay lại không phải ngày hôm qua, như mình dự định. Đúng là tính trước bước không tới. Hoàng nhớ tới lời mình dặn Sang, lấy một miếng giấy viết cho Sang mấy chữ,
“Sang, anh rất bận, không thể gặp em, hôm nay và có thể cả ngày mai, ngày mốt. Cảm ơn em và Trâm, bữa ăn sáng và cà phê ngon lắm, Tin anh đi, cà phê ngon hơn cà phê Dinh Điền Pleiku nhiều nhiều lắm, nhất là cô “Bé” pha cà phê đẹp và dễ thương hơn nhiều. Hẹn gặp em lại ngay khi công việc xong“.
Hoàng gấp lá thư, giao cho Tài, vừa dặn,
– Tài mang xuống căn nhà buổi sáng, đưa cho cô Sang. Nếu cô nói chờ thì chờ cô ta một chút. Nhớ không được trả lời, tôi bận việc gì.
Tài vội vã mang cây súng trên vai đi về hướng nhà Trâm. Khoảng 15 phút sau, Tài trở lại, tay xách một giỏ nặng, đưa cho Hoàng một thư viết tay,
“Anh, em muốn chờ anh ở nhà Trâm. Nếu được, anh viết cho em biết. Nếu không, nửa giờ sau em phải về. Chúc anh khỏe mạnh. Tiện có chút quà cho anh, chia cho mấy bạn anh ăn chung nhé. Em không có thì giờ mua sắm nhiều. Nhớ anh nhiều nhiều lắm. Trâm cũng chúc anh luôn mạnh. Cần gì ghé đưa thư cho Trâm, anh sẽ có ngay.“
Hoàng liếc nhìn giỏ đầy thức ăn lòng cảm thấy nao nao.
Đại úy Đàm đang nói chuyện với trung úy Quân, Đại đội trưởng Đại đội Một và cả Trung úy Đa, Đại đội Hai.
Theo ý Đại úy Đàm, Đại đội Hai vẫn giữ vị trí đang nằm, kể cả mấy người lính còn chết, đào thêm hố để phòng thủ, không cho VC tiến xuống phia Bắc ngọn đồi không tên. Nếu có thể lấy lại xác chết, chuẩn bị tản thương bằng xe khi khu vực trường Đa Thành an toàn. Đại đội Một, chờ máy bay từ Phan Rang lên yểm trợ, cộng thêm pháo đội pháo binh của Mỹ yểm trợ trực tiếp, sẽ là nỗ lực chính tấn công, tái chiếm ngọn đồi không tên từ phia đông. Đại đội Hai giữ nhiệm vụ yểm trợ vì vừa bị phục kích.
Ban lệnh xong, đại úy Đàm nói với đại úy Bailey, cố vấn tiểu đoàn về kế hoạch tái chiếm ngọn đồi. Giọng tiếng Anh của đại úy Đàm rất chuẩn, không khó khăn khi cần phải nói kỹ về chiến thuật muốn xử dụng để tái chiếm ngọn đồi. Bailey hứa sẽ làm mọi cách để có máy bay và pháo binh, yểm trợ. Hoàng biết mình phải làm gì. Là ban 3 tiểu đoàn khá lâu, ngay từ khi còn ở tiểu đoàn 21, và sau này với thiếu tá Huân, Hoàng nhiều kinh nghiệm tham mưu trong công việc. Hoàng vẽ phóng đồ khu vực hành quân, vị trí bị phục kịch, mũi tên xanh chỉ hướng tấn công của đại đội Một, nỗ lực chính từ phia đông, nỗ lực phụ và trừ bị từ phía bắc, hướng máy bay Hoàng muốn Bailey hướng dẫn vào vùng. Máy bay skyraider sẽ bay từ hướng tây sang hướng đông, và có thể dùng bom xăng đặc Napalm. L19 bao vùng từ phía bắc. Bailey lắng nghe và liên tục nói chuyện với nhóm cố vấn tiểu khu và cố vấn liên đoàn. Đại úy Đàm rất lo lắng vì quân số tham chiến của tiểu đoàn quá ít, nhất là đại đội Một, hơn 50 lính, không có ai là sĩ quan trung đội trưởng, ngoại trừ đại đội trưởng, Trung úy Quân, một sĩ quan thâm niên của tiểu đoàn, ăn nói nhỏ nhẹ, nhưng ít bạn bè.
Hoàng biết quân số mỗi đại đội trước tết rất đầy đủ, nhưng sau nhiều trận từ tết đến giờ, chết và bị thương làm tiểu đoàn gần như bất khiển dụng, cần phải tái huấn luyện và bổ xung quân số. Sau một tiếng đồng hồ cho đại đội Một chuẩn bị và pháo binh bắt đầu yểm trợ, phi tuần hai máy bay skyraider lên vùng. L19 rời xa vùng hành quân, bay ngược lên hướng bắc, đại đội Một bắt đầu tấn công. Qua tiếng máy C25, Hoàng và đại úy Đàm nghe tiếng súng nổ dòn, nghe cả tiếng súng VC bắn lại. Đại úy Đàm cho truyền tin vào máy nội bộ của đại đội Một để nghe trung úy Quân điều động các trung đội dưới quyền, thật tình, chẳng nghe gì giữa trung đội và đại đội. Mới đầu Hoàng nghĩ, truyền tin bị yếu, nên không thể nào nghe được, nhưng khi gọi đại đội Hai, trung úy Đa lên máy, nghe rất rõ. Hết đợt này tới đợt khác, hết pháo binh tới máy bay, không thấy kết quả gì, đại úy Đàm không thể nào nói chuyện với trung úy Quân để trực tiếp ban lệnh thêm, chỉ có truyền tin trên máy. Một đợt máy bay lên vùng, lại một đợt tấn công không kết quả, đại úy Đàm nói chuyện với trung úy Đa, hỏi tình hình. Trung úy Đa nói, theo ông ta, lực lượng VC không nhiều. Nhưng không thanh toán mục tiêu trong ngày, ban đêm, chúng sẽ tăng viện thêm quân khiến rất khó tái chiếm ngọn đồi này.
Hoàng hiểu khó khăn của đại úy Đàm, vừa nhận tiểu đoàn, nên Hoàng cố gắng hết mình, làm mọi việc nhất là an ninh phòng thủ vị trí tiểu đoàn, mặc dù nhiệm vụ này của đại úy Dzếnh, tiểu đoàn phó. Liên đoàn không có lực lượng nào để tăng phái cho tiểu đoàn thanh toán mục tiêu, ngay cả phương tiện chuyên chở cũng không. Từ hai ngày nay, đại đội Một, đại đội Hai không có tái tiếp tế đạn và lương thực. Hai đường tiếp tế duy nhất cho hai đại đội này đều không an toàn, vì không có lực lượng giữ đường, không có máy bay trực thăng vì mọi tỉnh đều có VC tấn công. Bailey báo cho Hoàng và đại úy Đàm,
– Một phi tuần 4 chiếc máy bay nữa sẽ thả bom xăng đặc.
Hoàng báo cho đại đội Một. Bốn máy bay thả bom khá chính xác, nhưng cả Hoàng, đại úy Đàm và Bailey thất vọng. Không thấy người lính nào chạy lên chiếm được mục tiêu, không cả liên lạc. Bailey nói máy bay rời vùng, nếu muốn phải hai giờ đồng hồ nữa phi tuần mới yểm trợ tiếp.
Hoàng kêu Tài mang mấy món ăn Sang gói sẵn ra ăn. Chàng thấy thương Sang. Đúng ra Sang có đủ điều kiện để sống sung sướng. Con một, nhà giàu, nhưng Sang nhất định chờ Hoàng. Sang tâm sự,
– Mỗi người có một định mệnh. Em chưa nghĩ tới xa anh. Chừng nào tới hãy hay. Bây giờ thì cứ sống với những giây phút đợi chờ, hồi hộp khi nghe tiếng súng hành quân. Em vẫn thấy khi yêu lính, cuộc sống như phong phú thêm. Anh đừng bao giờ lo nghĩ gì cả.
Sang luôn kết luận câu chuyện bằng một câu,
– Khi nào em lấy chồng anh biết ngay. Nhưng em chắc không phải ngày mai, tuần sau, hay tháng sau đâu, vì em vẫn yêu anh. Chỉ sợ anh, nay đây, mai đó, không chừng anh lấy vợ không phải là em.
Hoàng luôn gượng cười, làm gì có chuyện đó.
Hai giờ chiều, trời Dalat thật đẹp đứng gió, nắng chói chang. Chiến tranh, súng đạn không làm Dalat xấu, chỉ thiếu bóng người qua lại. Đường xá vắng tanh, nhất là không có tiếng xe gắn máy, không có một chiếc xe hơi chạy trên đường, vì dân chúng dùng xe đạp cho dễ cất, dễ gửi. Sang lên nhà Trâm cũng bằng xe đạp, chở theo giỏ thức ăn tới, phân trần, – Em chẳng làm món gì cho anh cả, mọi thứ mua tại chợ hết. Cũng may còn có người làm, chứ không, chắc chỉ thăm anh, không quà không bánh.
– Cần gì quà bánh, em là quá đủ rồi, Hoàng cười.
– Anh nói xạo, anh thích mứt gừng hơn em. Vừa nói Sang vừa kéo Hoàng sát vào người, không để ý tới Trâm, vừa hôn nhẹ vào má Hoàng vừa nói, “Đúng không anh?“
Đại úy Đàm gọi Hoàng, vừa cười vừa nói như giỡn,
– Tôi cần Alpha mới vì mình phải chiếm lại mục tiêu trước khi trời tối. Nếu không đêm nay, tụi nó tăng quân lên ngọn đồi này, mình uổng công cả mấy ngày hôm nay, mà còn chết thêm nhiều quân nữa,
Hoàng nói với đại úy Đàm.
– Anh Quân đánh từ tết đến giờ cũng quá mệt mỏi, nhưng ai thay đại đội Một?
– Cậu chứ ai nữa. Đại úy Đàm cười.
Huấn đứng cạnh nhìn Hoàng lo lắng nhưng không dám hó hé gì. Công bình mà nói, không còn ai thay thế được nữa. Huấn, sĩ quan truyền tin; trung úy Thông ban hai, chưa chỉ huy đại đội bao giờ, nhìn đi nhìn lại, chỉ còn Hoàng. Hoàng chẳng buồn, cũng chẳng lo lắng gì. Quân đội mà, phải chấp hành lệnh. Đại úy Đàm nói,
– Cậu nói với Bailey, mình cần một trực thăng để thay thế đại đội trưởng ngay tại chiến trường. Tôi nói chuyện với Quân ngay. Khi xuống tới nơi, Quân lên trực thăng, máy bay sẽ bay thẳng về Liên Đoàn. Trên đó đang cần một phụ tá ban Ba, tiện thể lần này Quân lên đó cũng được. Tôi nói chuyện với trung tá Dõng và thiếu tá Thi ngay bây giờ. Cậu muốn mang theo người lính nào không? Hoàng suy nghĩ, “Bây giờ, mình bị ra trận đột ngột. Dù không muốn cũng phải đi. Nhưng mang theo một người lính tới chiến trường, lỡ không may người này chết, mình sẽ ân hận.” Hoàng kiên quyết,
– Cảm ơn Hoàng Mai. Tôi đi một mình cũng được, thêm một người nữa, quân số cũng chẳng thay đổi gì,
Đại úy Đàm không ép. Hoàng quay lại nhìn Tài và người nấu cơm cho Hoàng
– Tài mang cho tôi chiếc ba lô, cây súng colt 45, dây ba chạc và hai bộ đồ, cùng số đồ ăn cô Sang mới đưa. Sau khi tôi đi, hai anh nhập vào toán canh gác.
Hai người lính lật đật chuẩn bị ba lô theo lời Hoàng dặn. Sau khi xong, cả hai cứ đứng xớ rớ bên Hoàng, tỏ vẻ lo lắng cho chàng.
Chờ gần hai mươi phút, Bailey nói với Hoàng và đại úy Đàm rằng ông ta sẽ lái xe đưa Hoàng ra sân vận động Dalat, ngay cạnh bờ hồ, theo Hoàng tới tận bãi đáp của đại đội Một và đưa trung úy Quân về liên đoàn.
Huấn, sĩ quan truyền tin theo Hoàng ra chiếc xe jeep, chúc Hoàng may mắn, chiếm được mục tiêu, an toàn và trở về lại tiểu đoàn. Thật tình, Hoàng không buồn, không lo lắng, mà còn cảm thấy thích thú vì có dịp chiến đấu trực tiếp tại mặt trận. Chiếc ba lô nhẹ nhàng trên vai, dây ba chạc với súng colt, địa bàn trên cổ, Hoàng đi với Bailey và hạ sĩ Mỹ mang máy liên lạc vào sân vận động. Trên đường Bailey luôn liên lạc với bộ chỉ huy, nhưng không nói với Hoàng câu nào.
Khi Hoàng tới sân vận động Dalat, trực thăng cũng vừa đáp xuống. Tiếng máy bay làm Hoàng không nghe rõ Bailey nói. Hoàng hỏi phải làm gì. Cả hai người phi công và hai người Gun nhìn Hoàng ra dấu bằng hai ngón tay cái, chỉ lên trời. Hoàng hiểu ý người phi công, im lặng không nói. Trực thăng bay ngang hồ Xuân Hương. Lúc máy bay nghiêng một phía, Hoàng nhìn rõ khu chợ Hòa Bình, và lần đầu tiên thấy nhà Sang từ trên cao, hai cây thông thật lớn trước nhà, và con đường Duy Tân.
Không biết Sang ở đâu, trong nhà hay đang đi mua thức ăn? Hoàng khẽ gọi, “Sang ơi, em chúc anh may mắn, cầu nguyện cho anh nghe. Em có thể không bao giờ gặp mặt anh nữa đâu.”
Hoàng thầm nói, bình tĩnh nhưng cũng thành thật, “Đời lính có bao nhiêu người lên máy bay xuống trận địa một mình, không có chọn lựa, với lệnh duy nhất, chiến thắng, chiếm lại mục tiêu hay gục ngã tại chiến trường.” Hoàng không bao giờ chuẩn bị cho hôm nay, và có lẽ, cũng không ai chuẩn bị cả, nhưng Hoàng phải chấp nhận vì chàng được huấn luyện như vậy.
Bailey chỉ tay vào tấm bản đồ, vẽ đường bay của chiếc trực thăng cho Hoàng hiểu vì tiếng máy bay rất ồn. Chiếc trực thăng bay lên hướng bắc, rồi vòng lại phía nam, và đáp ngay khi thấy bãi đáp xếp bằng tấm pano của đại đội Một. Từ trên cao, Hoàng nhìn thấy mục tiêu sắp chiếm. Khi Bailey chỉ ngón tay xuống mục tiêu, Hoàng gật đầu, ra dấu cho Bailey mình nhận ra mục tiêu. Thực tình, Hoàng đã lái xe ngang qua điểm này, chạy trên đường trải đá, chỉ không lên ngọn đồi mà thôi. Sau một vòng bay lớn, chiếc trực thăng lại bay theo hướng bắc, Hoàng nhìn thấy trường Đa Thành, trường tiểu học Hoàng học hai năm trước khi vào trung học.
Dĩ vãng thoáng qua như cuốn phim quay chậm, đâu cũng thân quen, đâu cũng gợi nhớ. Dòng Chúa Cứu Thế đang hiện ra ngay hướng 10 giờ của chiếc trực thăng. Máy bay tiếp tục bay thật xa, cuối cùng quay trở lại, xuống thấp trong khi Bailey liên lạc với đại đội Một. Trực thăng bay chậm chỉ cao hơn nóc nhà. Khi thấy tấm Pano màu hồng, với cách đáp rất điêu luyện, pilot đáp nhẹ nhàng ngay thung lũng giữa mặt đường. Hoàng nhảy xuống máy bay.
Trung úy Quân, mặc chiếc quần ngụy trang, áo mayo, không ba lô, đưa Hoàng chiếc bản đồ, chỉ trên địa thế hai trung đội ngay phía trái hướng bay, còn một trung đội ngay gần chỗ máy bay, vừa nói cho Hoàng biết đại đôi chỉ còn 46 người, ngoài Hoàng không có một sĩ quan nào khác. Trung úy Quân vừa nói xong, cũng vừa nghe tiếng “đề pa” súng cối VC về phía chiếc trực thăng. Hoàng la thật to cho Bailey, ra dấu cho trực thăng lên trời. Trung úy Quân nhảy vội lên máy bay, khi người phi công xoay máy bay 180 độ lên phía Bắc. Mấy phút sau trực thăng đã bay về hướng Dòng Chúa Cứu Thế.
Hoàng cúi lom khom, mắt nhìn về phía bên phải, có mấy cây quì vàng, một tả ly thấp, đất đỏ. Một người lính chạy ra dẫn Hoàng vào tuyến của trung đội chỉ huy, có 3 máy truyền tin và một trung sĩ. Họ nằm sát cạnh đường. Hoàng vừa nằm vừa hỏi người trung sĩ tình hình thế nào. Trung sĩ, quyền trung đội trưởng, nói sơ qua cho Hoàng biết,
– Trung đội còn khoảng 10 người. Hai trung đội nằm phía Đông Nam con đường, cách chỗ đây khoảng 300 thước, ngay phía Đông mục tiêu. Còn hai trung đội nữa, tổng số cả đại đội 46 người, nếu kể Trung Uý là 47. Hoàng im lặng, kêu truyền tin, truyền lệnh,
– Anh cho tôi nói chuyện với thẩm quyền.
Mười lăm phút trôi qua, Hoàng phải quyết định nhiều việc, không có nhiều lựạ chọn trong tình thế này, chỉ có một cách lý tưởng nhất là có thêm quân số, điều động về hướng tây bắc và tấn công theo hai mũi xuống hướng nam. Chàng chắc lưỡi, lầm bầm như ra lệnh cho chính mình, “Tapi”… Trong khi ngồi chờ hai trung đội trưởng vào máy, Hoàng nhảy xuống chiếc hố hình chữ nhật sâu hơn đầu gối, trong khi người trung đội trưởng và hai chiếc máy nhảy vào chiếc hố bên cạnh.
Hoàng đảo mắt một vòng, coi toàn thể trận địa chung quanh. Phía bắc, nhìn ngay xuống dãy nhà tôn, khoảng hơn trăm thước, Hoàng buột miệng,
– Trời, nhà Liên và Giàu, hai cô học trò nghịch ngợm như con trai của lớp Tư và Năm trường Đa Thành, ngồi dãy bàn trên trong lớp.
Nhìn ra xa về phía đông là quán tạp hóa của chú ba Tàu, Hoàng thường ghé uống nước lạnh bằng chiếc gáo dừa, và mua máy viên kẹo bi màu tím đỏ và mấy trái cà ná. Quay nhìn về phía mục tiêu, ngọn đồi thoai thoải ngay chỗ Hoàng ngồi, nhưng khi gần mục tiêu thì lại cao. Hoàng thấy mình có thể tiến sát tới đó và xung phong. Người truyền tin đưa Hoàng ống liên hợp,
– Alpha, có các thẩm quyền trên máy.
Hoàng chào mọi người rồi nói tên mình, vừa khôi hài,
– Có ai không biết tên tôi không? Mọi người đều cười,
– Chào Alpha.
Hoàng nói ngắn gọn,
– Trung úy Nguyên đã nhận nhỉệm vụ khác nên bàn giao đại đội 1 cho tôi. Từ nay, tôi là cấp chỉ huy trực tiếp cuả các anh.
Hoàng nhấn mạnh ý Hoàng Mai là đại đội 1 phải thanh toán mục tiêu ngay trong chiều nay. Pháo binh tại tiểu khu và máy bay từ Phan Rang sẽ lên yểm trợ tối đa, khi lệnh xung phong được ban ra thì cả đại đội sẽ xung phong vào mục tiêu với nhiệm vụ rõ ràng “Chiếm mục tiêu hay chết“. Hoàng thêm chi tiết,
– Trung đội một và chỉ huy gần tôi sẽ nhận lệnh miệng của tôi, trung sĩ quyền trung đội trưởng trung đội 1 sẽ giúp tôi kiểm soát và đôn đốc binh sĩ. Trung đội 3 và 4 ở phía Đông sẽ nhận lênh qua máy và tiến theo chính diện từ đông sang tây. Khi chiếm được mục tiêu, trung đội chỉ huy và trung đội 1 sẽ ở lại mục tiêu, trung đội 3 sẽ tràn xuống phía Tây phòng thủ, trung đội 4 sẽ xuống phía Nam, hướng nhà lầu chín triệu phòng thủ. Tôi sẽ ra lệnh kế tiếp khi cần thiết.
Hoàng thấy phải nói thêm để họ hiểu mình biết rõ quân số và đạn dược của đại đội và sự mệt mỏi của mọi người. Nhưng là lính binh chủng BĐQ, không ai được chối từ nhiệm vụ. Trước khi chấm dứt phần ban lệnh, Hoàng nói tiếp,
– Mỗi người lính chỉ mang súng, dây đạn, bi đông nước, ba lô. Tất cả mọi thứ khác, kể cả cối 60 cũng gom và dấu lại. Sau chiến thắng, sẽ có người trở lại để mang về tuyến phòng thủ mới. Hoàng nhìn đồng hồ, bây giờ là 3:30. Hoàng ra lệnh tiếp,
– Trung dội có 30 phút ban lệnh nội bộ, đói thì ăn vài miếng trước khi tấn công. Dấu ba lô, súng cối. Khoảng 10 phút nữa, pháo binh sẽ bắt đầu bắn vào mục tiêu, và trung đội sẽ lên sát mục tiêu càng gần càng tốt. Chờ lệnh cuối cùng là xung phong. Hoàng báo cáo kế hoạch cho Hoàng Mai. Hoàng đã tiên liệu mọi việc nên khi vừa xuống bãi đáp và ngay khi còn trên máy bay chàng đã nói với Bailey xin skyraider. Mấy phút sau, Bailey nói
– Máy bay sẵn sàng vào vùng. Hai chiếc một lần, cách khoảng 10 phút. Có thể có 4 phi tuần. 2 chiếc ra, 2 chiếc khác sẽ vào, trong vòng 40 phút.
Hoàng mừng rỡ, kể cả mấy người mang máy truyền tin cũng vui theo. Hoàng cẩn thận nói với tiểu đoàn, đừng cho máy bay vào khi còn pháo binh.
Hoàng lên máy, hỏi lại lần chót. Mọi người sẵn sang. Hoàng lấy một cây Carbin M2, bỏ cây súng colt và dây ba chạc lại. Mấy người lính cạnh Hoàng nhìn chàng, im lặng, không nói. Nhưng qua ánh mắt họ, Hoàng hiểu, một chút thán phục, một chút kiêu hãnh về người chỉ huy. Giờ này, Hoàng cũng ở một điểm khởi hành như họ, hơn 10 ngưòi. Vài phút nữa đây, Hoàng cũng xung phong lên đồi như họ. Nào ai biết ai mất ai còn.
Mọi việc không tiến hành như Hoàng dự tính. Pháo binh vừa chấm dứt, cánh quân của Hoàng khi chạy khi bò đã lên được đoạn. Tiếng đạn VC réo ngang đầu Hoàng, trongkhi mấy trái súng cối bay qua chỗ Hoàng rớt dưới đường, khói trắng bay tỏa lên trời. Hoàng đã thấy mấy xác chết của lính đại đội 2 ngay trước mặt. Phía Trung đội 3 và 4, không thấy một bóng người, theo dự trù, họ phải nằm trên đồi, ít nhất cũng chỉ cách mục tiêu khoảng 50 thước. Cho dù họ không bò, VC cũng không thấy họ vì chúng đứng dưới hố. Hoàng cầm máy gọi hai trung đội trưởng nói chuyện, Hoàng nói như hét,
– Các anh đánh giặc miệng với tôi hả?
Họ ậm ừ. Hoàng kêu cây M79 tới gần, chỉ ngay hàng rào ngũ sắc,
– Anh bắn về hướng đó cho tôi hai trái.
Người lính lưỡng lự. Hoàng giật lấy cây súng, ngắm ngay phía trung đội 3 và 4, áng chừng không nguy hiểm lắm cho hai trung đội này nhưng họ cũng đủ sợ để tiến thẳng về mục tiêu.
“Tung.. tung…”, tiếng M 79 nổ, mọi người đều nghe. Truyền tin báo cáo, thẩm quyền xin đừng bắn để họ lên, Hoàng lại lên máy,
– Các anh chạy lên cho tôi thấy.
Quả thật Hoàng thấy họ chạy lên khỏi tả ly đất. Hoàng ra lệnh,
– Tôi sẽ bắn pháo binh. Cả đại đội sẽ tiến thêm cho gần mục tiêu. Khi tới chỗ gần nhất và đủ sức chạy vào mục tiêu thì ngừng lại, dàn hàng ngang, chờ lệnh.
Hoàng gọi máy, nói chuyện với Hoàng Mai, xin pháo binh bắn cầm chừng phía tây mục tiêu, rồi kéo lên phia đông, để quân Hoàng lấy đội hình xung phong. Khi pháo binh bắt đầu bắn theo ý Hoàng, thì súng cối VC cũng nổ tới tấp mấy trái liền về phia họ. Một viên rơi ngay vào hố phía sau Hoàng làm một hạ sĩ chết, một lính bị thương nặng. Hoàng nghe tiếng người lính kêu,
– Alpha ơi, cứu em với.
Hoàng cắn răng kh ông trả lời. Hoàng đã chạy qua xác mấy người lính đại đội 2 chết buổi sáng. Phía đông báo cáo, họ không thể tiến sát hơn được nữa. Hoàng nhìn họ, rồi nhìn mấy người lính gần mình, ra lệnh, – Máy bay sẽ vào, mỗi lần hai chiếc. Khi thấy 2 chiếc sau cùng thả bom xong, là xung phong. Máy bay vào vùng. Hai chiếc đầu tiên lấy hướng từ phía đông đông bắc xuống tây nam. Bom lướt trên ngọn đồi chuồi theo hướng tây, tuy không giết được VC nhưng làm chúng hoảng hốt. L9 báo cáo,
– VC bỏ chạy xuống đồi.
Hoàng gọi trung đội 3 và 4, cho biết và còn quả quyết để lấy tinh thần,
– Tụi mình sẽ chiếm đồi, mà không mất thêm một ngượi lính nào hết. Hoàng nhìn lại lính mình, nó thật to. Các anh sẵn sàng, khi tôi hô xung phong là cùng chạy lên đồi
Mọi người đều căng thẳng nhưng kiên quyết. Hai máy bay kế tiếp vào mục tiêu, cùng một hướng. Hoàng nghe tiếng AK bắn liên tục lên trời, phía Hoàng, và hai trung đội 3, 4. Hoàng nhìn thấy rõ màu đất mới đào của mấy chiếc hầm VC. Từ chỗ này, nếu Hoàng đứng khum người, cũng có thể lãnh nguyên băng đạn của chúng. Chàng lại nói chuyện với Hoàng Mai. Đại úy Đàm cũng rất vui khi Hoàng kiên quyết chiếm mục tiêu sau phi tuần cuối cùng.
Hoàng vừa nói chuyện, vừa nhìn về phía thành phố. Dân Dalat cũng lạ, họ ngồi ngay trên tả ly đất, trồng cỏ của nhà thờ Tin Lành, đường Hàm Nghi, theo dõi trận đánh. Tuy mắt không nhìn rõ bóng người, những thân hình chạy qua chạy lại, Hoàng có thể hình dung mọi người dân đang theo dõi cuộc tấn công của đại đội, như họ đang coi một cuốn phim sống, mà những diễn viên đang lấy hơi để chạy trên dưới 15 thước cuối cùng. Đối với nhiều người không may mắn sẽ là mười lăm bước cuối cùng của đời lính. Trong một khoảnh khắc, Hoàng nhớ tới Sang, tới gia đình, tới Trâm, nhớ tới bạn bè, tới Pleiku, Kontum, nhớ tới Biển Hồ, nhớ tới con đường đầy Phượng đỏ Kon Tum. Hoàng nhớ lại lời Sang,
”Mỗi lần nghe tiếng súng, em lại cầu nguyện cho anh, cho đơn vị anh được an lành. Ôi, ai mang chiến tranh về cho mọi người đều khổ?”
Sau khi đại úy Đàm báo cho biết phi tuần cuối cùng sẽ vào vùng, Hoàng cho lệnh mọi người bò thật sát mặt đất, – Khi thấy trái bom rời khỏi bụng máy bay, gần sát mục tiêu là bắn liên tục cho tới khi có thể thì xung phong. Khi hai trái bom rời khỏi bụng phi cơ, gần sát mục tiêu, Hoàng bắt đầu bóp cò liên tục, cả trung đội bên cạnh Hoàng đều nổ súng, dòn dã. Sau tiếng bom nổ, và bụi tỏa đầy trời, Hoàng như một cái máy, miệng hô “xung phong”. Mọi người vừa tràn lên vừa hô “xung phong”. Vài giây sau Hoàng và mọi người đã chiếm ngọn đồi. Một tên VC dơ tay đầu hàng sau khi bóp băng đạn cuối cùng. Thật tàn nhẫn, nguyên băng đạn trúng ngay Nhung, người lính vác cây trung liên. Hoàng không kịp nói câu nào thì một loạt đạn của người lính chạy bên cạnh Nhung cũng ghim đầy vào ngực tên VC. Chiếc AK rớt ngay bên miệng hầm.
Cả đại đội đã nằm trên mục tiêu, ngọn đồi không tên. Hoàng thấy vỏn vẹn 7 xác VC. Phía tây mục tiêu, bọn chúng lấy nệm của dân chúng cho mấy tên lính bị thương nằm. Chúng đã bỏ lại trên 10 chiếc nệm đầy máu, và hai tên bị thương nặng. Hoàng cho lệnh không được bắn, chờ chuyển giao cho phòng 2 tiểu khu.
Khi người lính đưa máy, Hoàng vui vẻ báo cáo với Hoàng Mai,
– Tôi đã chiếm mục tiêu.
Đại úy Đàm vui vẻ. Trong lúc Hoàng nói chuyện, truyền tin nói bên tai,
– Mình vừa lượm thêm hai B41. Họ vừa nói vừa cười. Tụi nó dựng hai B41 ngay trên bàn thờ, mới đầu trông như hai cây đèn cầy lớn.
– Cậu cho lục soát thật kỹ, chuẩn bị đóng quân đêm. Ngày mai, tôi sẽ cho lệnh mới. Hoàng Mai dặn dò.
Mấy phút sau, tiểu đoàn gọi máy,
– Alpha cho thả khói màu vàng ngay trên đỉnh đồi.
Hoàng cho mở trái khói vàng ngay gốc 3 cây thông nằm trơ trọi, trên trời, trong khi chiếc L 19 bay thật sát ngọn đồi, mấy người lính dơ tay ngoắc vẫy chào. Chiếc máy bay, vòng lại bay thật thấp, thả một trái khói màu xanh, rồi mất hút.
Hoàng lại nhớ tới Sang. giờ này chắc Sang đang bận bịu nấu cơm chiều. Cô bé chắc lo lắm, vì từ trưa tới giờ, chỉ nghe tiếng bom và đạn, nhất là tiếng bom. Hoàng chắc lưỡi, “Dalat có bao giờ nghe tiếng bom như hôm nay. Sang chắc thấp tha thấp thỏm, đứng ngồi không yên? Thật khổ cho những người trong tâm trạng như Sang, chẳng biết làm gì ngoại trừ, như Sang nói, “Em chỉ biết nguyện cầu”.”
Tháng 2/2011.
http://www.bietdongquan.com/baochi/munau/so33/emmainguyencau.htm