Có mặt từ Chiến tranh Lạnh, đây vẫn là chiếc máy bay nhanh nhất thế giới
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chiếc máy bay này có thể bay cao và nhanh hơn bất kỳ loại máy bay nào khác. Tận 55 năm sau lần đầu tiên nó cất cánh, kỷ lục đó vẫn chưa bị xô đổ.
Lockheed SR-71, được thiết kế bí mật vào cuối những năm 1950, có thể thực hiện hành trình đến gần rìa không gian và “đánh bại” luôn cả tên lửa. Cho đến nay, SR-71 vẫn giữ kỷ lục về độ cao lớn nhất khi bay ngang, cùng tốc độ nhanh nhất đối với máy bay không dùng tên lửa.
Nó là thành viên của chủng loại máy bay do thám, được chế tạo để xâm nhập vào lãnh thổ đối phương mà không bị bắn hạ hoặc bị phát hiện, ở thời điểm trước khi vệ tinh và máy bay không người lái trở nên phổ biến như ngày nay.
Được sơn đen và thiết kế tản nhiệt, khiến nó có biệt danh là Blackbird. Kết hợp với những đường nét bóng bẩy của thân máy bay dài, tạo ra một vẻ ngoài đặc biệt, không giống bất cứ thứ gì từng xuất hiện trước đó. Một thiết kế không làm mất đi vẻ rực rỡ theo thời gian.
“Nó trông giống một thứ gì đó đến từ tương lai, mặc dù được thiết kế từ những năm 1950”, Peter Merlin, một nhà sử học hàng không cho biết.
“Với cách mà thân máy bay uốn cong cùng với đôi cánh cong và xoắn, nó trông có tính ‘hữu cơ’ hơn là một vật cơ khí. Hầu hết các máy bay thông thường sẽ trông giống như ai đó đã chế tạo chúng, còn chiếc máy bay này gần giống như đã lớn lên vậy”.
Chương trình bí mật của CIA
Vào tháng 5/1960, một máy bay do thám U-2 của Mỹ đã bị bắn rơi trên không phận Liên Xô khi đang chụp ảnh từ trên không. Ban đầu, chính phủ Mỹ nói rằng đây chỉ là một chiếc máy bay nghiên cứu thời tiết bị lạc đường, nhưng câu chuyện đã đổ bể khi chính phủ Liên Xô công bố những bức ảnh về phi công bị bắt và thiết bị giám sát của chiếc máy bay.
Vụ việc gây nên tác động ngoại giao ngay lập tức trong Chiến tranh Lạnh, càng củng cố nhu cầu về một loại trinh sát mới có thể bay nhanh, trần bay cao hơn, an toàn trước hỏa lực phòng không. Merlin cho biết: “CIA muốn một chiếc máy bay có thể vượt qua trần 27,4 km, tốc độ cực cao và vô hình trước radar”.
Nhiệm vụ thiết kế một cỗ máy đầy tham vọng như vậy thuộc về Clarence “Kelly” Johnson, một trong những nhà thiết kế máy bay vĩ đại nhất thế giới, cùng với bộ phận kỹ sư bí mật của ông tại Lockheed, được gọi là Skunk Works. “Mọi thứ đều phải phát minh. Ý tôi là tất cả mọi thứ”, Johnson hồi tưởng. Ông đã qua đời vào năm 1990, cùng năm mà chiếc Blackbirds được nghỉ hưu lần đầu tiên.
Mẫu đầu tiên trong dòng Blackbird được gọi là A-12, thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 30 tháng 4 năm 1962. Tổng cộng, 13 chiếc A-12 đã được xuất xưởng theo chương trình tiếp cận đặc biệt và tuyệt mật do CIA vận hành.
“Lớp da” titan
Vì được thiết kế để bay nhanh hơn 3220 km/h, ma sát với bầu khí quyển xung quanh sẽ khiến thân máy bay nóng đến mức có thể làm tan chảy khung máy bay thông thường. Do đó, nó được chế tạo bằng titan, loại kim loại có thể chịu được nhiệt độ cao, nhẹ hơn thép.
Tuy nhiên, việc sử dụng titan gây ra các vấn đề khác. Đầu tiên, phải chế tạo một bộ công cụ hoàn toàn bằng titan, bởi vì những thiết bị bằng thép thông thường sẽ làm vỡ lớp titan giòn khi tiếp xúc. Thứ hai, để tìm nguồn cung ứng kim loại không phải là dễ dàng. “Liên Xô vào thời điểm đó là nhà cung cấp titan lớn nhất thế giới. Chính phủ Mỹ đã phải trả chi phí mua rất nhiều, ngay cả việc sử dụng các công ty vỏ bọc”, Merlin cho biết.
Ban đầu A-12 hoàn toàn không có sơn, lộ ra lớp da titan màu bạc. Chúng được sơn màu đen lần đầu tiên vào năm 1964, sau khi nhận ra rằng sơn đen giúp hấp thụ và tỏa nhiệt hiệu quả, hạ nhiệt độ của toàn bộ khung máy bay. Và như vậy, “Blackbird” thật sự ra đời.
Cùng thiết kế, khác tên gọi
A-12 nhanh chóng được phát triển thành một biến thể thiết kế như một máy bay đánh chặn – một loại máy bay chiến đấu thay vì làm nhiệm vụ do thám. Thực tế, điều này sẽ yêu cầu bổ sung các tên lửa không đối không và một buồng lái thứ hai, để một thành viên phi hành đoàn vận hành các thiết bị radar cần thiết. Chiếc máy bay mới này trông giống hệt chiếc A-12 ngoại trừ phần mũi, được gọi là YF-12.
Trong khi A-12 vẫn được giữ bí mật, sự tồn tại của YF-12 đã được Tổng thống Lyndon Johnson tiết lộ vào năm 1964, ba trong số chúng được chế tạo và vận hành bởi Không quân Mỹ. Một biến thể thứ ba đã được sản xuất trong khoảng thời gian này, được gọi là M-21, có một cột trụ trên lưng để gắn và phóng máy bay không người lái. Hai chiếc đã được chế tạo, nhưng chương trình bị tạm dừng vào năm 1966 sau khi một máy bay không người lái va chạm với tàu mẹ của nó, khiến một trong các phi công thiệt mạng.
Phiên bản cuối cùng của A-12, với một buồng lái đôi và sức chứa nhiên liệu lớn hơn, được gọi là SR-71, phục vụ “Do thám chiến lược” và bay lần đầu tiên vào ngày 22/12/1964. Đây là phiên bản sẽ thực hiện các nhiệm vụ tình báo cho Không quân Mỹ trong hơn 30 năm, có tổng cộng 32 chiếc được chế tạo, nâng con số tổng cuối cùng của gia đình Blackbird lên 50.
Buồng lái kép của Lockheed SR-71
Tàng hình trước cả khi có công nghệ tàng hình
Thân máy bay SR-71 sử dụng một số vật liệu composite lần đầu tiên được ứng dụng trên máy bay, khiến nó khó bị phát hiện bởi radar đối phương. “Về cơ bản, nó đã tàng hình còn trước cả khi thuật ngữ tàng hình được sử dụng”, Merlin cho biết.
Bay ở độ cao ngoài tầm với của hỏa lực phòng không, nhanh hơn tên lửa và hầu như không thể bị phát hiện bởi radar, Blackbird có thể tiến vào không phận đối thủ khá dễ dàng. “Ý tưởng là vào thời điểm mà kẻ địch phát hiện và bắn tên lửa, thì nó đã kịp tẩu thoát”, Merlin nói.
Vì vậy, kết quả là không một chiếc Blackbird nào bị bắn hạ bởi hỏa lực của đối phương. Tuy nhiên, độ an toàn khi sử dụng lại là vấn đề, 12 trong số 32 chiếc đã bị rơi trong các vụ tai nạn. Nó cũng là một chiếc máy bay phức tạp trong việc vận hành và bay.
“Phải yêu cầu cả một đội ngũ để chuẩn bị cho chiếc máy bay. Một nhiệm vụ của Blackbird về cơ bản có đếm ngược thời gian giống như sứ mệnh không gian, bởi vì có quá nhiều sự chuẩn bị liên quan đến cả sự sẵn sàng đối với phi hành đoàn và phương tiện, một khối lượng không thể tin nỗi cả về nỗ lực và nhân lực”, Merlin nói.
Các phi công cũng phải thay đồ theo cách đặc biệt, do điều kiện khắc nghiệt ở độ cao lớn. Merlin cho biết: “Về cơ bản họ mặc một bộ đồ vũ trụ, giống thứ mà sau này bạn sẽ thấy các phi hành gia tàu con thoi mặc. Buồng lái cũng rất nóng khi bay ở tốc độ cao, đến mức các phi công thường hâm nóng bữa ăn trong các nhiệm vụ dài ngày bằng cách ấn nó vào kính”. Vâng, họ đã sống trong một nơi có thể hâm nóng thức ăn như vậy.
Sứ mệnh khi về hưu
Không có chiếc Blackbird nào từng bay qua không phận Liên Xô, điều mà chính phủ Mỹ đã ngừng hoàn toàn sau sự cố năm 1960. Nhưng chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh lạnh, thực hiện các nhiệm vụ tại Trung Đông, Việt Nam, Bắc Triều Tiên.
Một chiếc SR-71 trong một chuyến bay thử nghiệm do NASA xử lý.
Năm 1976, SR-71 lập kỷ lục mà nó vẫn còn giữ cho đến nay: bay ở độ cao duy trì 25,9 km và đạt tốc độ tối đa 3529 km/h hoặc tốc độ Mach 3,3.
Chương trình bị dừng vào năm 1990 với sự hồi sinh ngắn ngủi vào giữa những năm 1990, khi các công nghệ như vệ tinh do thám và UAV (máy bay không người lái) trở nên giàu tính ứng dụng hơn, cung cấp quyền truy cập tức thời vào dữ liệu giám sát.
SR-71 được NASA cho cất cánh lần cuối vào năm 1999, hai chiếc của chủng loại được sử dụng để nghiên cứu hàng không tốc độ cao và ở độ cao lớn. Kể từ đó, những chiếc Blackbird còn lại đều dần được đưa vào viện bảo tàng.
Theo Khoa học