Giải mã Chiến lược hợp tác của EU tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
ĐỖ HOÀNG – 26/09/2021
Ngay sau khi Mỹ, Anh, Australia trình làng cơ chế hợp tác an ninh 3 bên AUKUS, ngày 16/9, Ủy ban châu Âu (EC) đã công bố báo cáo chung Chiến lược hợp tác của Liên minh châu Âu (EU) tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.Sau \’cú shock\’ AUKUS, Pháp nỗ lực tìm kiếm \’đồng minh mới\’ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương?Học giả Ấn Độ \’chỉ điểm\’ những lĩnh vực hợp tác tiềm năng giữa New Delhi và AUKUSAUKUS và sự xáo trộn bàn cờ địa chính trị ở châu Á-Thái Bình Dương
Chiến lược hợp tác của EU tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”trực tiếp nhắc đến Trung Quốc cả về hợp tác và cạnh tranh. (Nguồn: Reuters) |
So với bản Kết luận về Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Hội đồng châu Âu hồi tháng 4/2021, văn bản mới vẫn thể hiện cách tiếp cận nhất quán của EU với khu vực nhưng có phương hướng triển khai cụ thể hơn.
Những điểm khác biệt lớn
Về ưu tiên, văn bản mới đưa ra 7 vấn đề cụ thể thay vì các mục tiêu và phương hướng chung chung như văn bản cũ, cụ thể là: phát triển bền vững và bao trùm; chuyển đổi xanh; quản trị biển; quản trị số; kết nối; an ninh quốc phòng; và an ninh con người.
Các vấn đề này cũng cho thấy EU quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an ninh biển và an ninh phi truyền thống.
Văn bản tháng 4 không nhắc đến các ưu tiên mà chỉ đưa ra 3 mục tiêu: đóng góp vì ổn định, an ninh, thịnh vượng và phát triển bền vững khu vực; thúc đẩy giá trị dân chủ, nhân quyền và luật pháp quốc tế; và thể hiện vai trò đối tác quan trọng và nhân tố toàn cầu của EU.
Về đối tác/đối tượng, văn bản tháng 4 không hề nhắc tên Trung Quốc trực tiếp mà chỉ đề cập Thỏa thuận Đầu tư với Trung Quốc.
Tuy nhiên, văn bản có thể “ám chỉ” Trung Quốc vì đề cập nhiều đến cạnh tranh chiến lược khu vực, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu thô, tuân thủ luật quốc tế, bảo vệ nhân quyền hay cạnh tranh thương mại công bằng…
Đây là những vấn đề phương Tây thường dùng để chỉ trích Trung Quốc.
Ngoài ra, văn bản tháng 4 nhắc đến các đối tác khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, ASEAN và các nước thành viên ASEAN (Indonesia, Singapore và Việt Nam), đồng thời khẳng định sẽ tập trung vào các đối tác đã đưa ra tầm nhìn/chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Điều này có thể cho thấy hàm ý EU quan ngại về Trung Quốc nhưng không muốn nêu trực diện.
Trong khi đó, văn bản mới ra của EC trực tiếp nhắc đến Trung Quốc cả về hợp tác và cạnh tranh: “chỉ điểm” Trung Quốc quân sự hóa trên thực địa và gây căng thẳng; nhiều lần nhắc đến Eo biển Đài Loan, Biển Đông và Biển Hoa Đông – những vấn đề văn bản cũ bỏ qua; tiếp tục nêu ra các quan ngại như văn bản tháng 4.
Bên cạnh đó, văn bản mới nhấn mạnh hợp tác song phương với Trung Quốc về kinh tế, môi trường và an ninh biển…, đồng thời đi kèm tuyên bố báo chí với một mục riêng khẳng định chiến lược của EU không nhằm đối chọi với Trung Quốc.
Có thể thấy, các thành viên của EC đã đạt được đồng thuận lớn hơn về cách tiếp cận hợp tác-cạnh tranh với Trung Quốc.
Về sáng kiến, văn bản của EC đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác cụ thể hơn, đặc biệt là về an ninh phi truyền thống. Ví dụ điển hình là Liên minh Xanh (về biến đổi khí hậu), Horizon Europe (về nghiên cứu sáng tạo), Mạng lưới Ngoại giao mạng (về an ninh mạng) hay Thỏa thuận Đối tác số (về các công nghệ mới như trí khôn nhân tạo và củng cố chuỗi cung ứng bền bỉ)…
Về an ninh biển, Biển Đông, Biển Hoa Đông và Eo biển Đài Loan không được đề cập trong văn bản tháng 4. Lý do có thể vì các thành viên chưa đạt được đồng thuận về Biển Đông hoặc chưa quan tâm nhiều đến vấn đề Biển Đông.
Đây là điều dễ hiểu vì nhiều nước thành viên EU có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc và tham gia vào Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của nước này.
Trước đó, EU đã từng không đạt được đồng thuận về Biển Đông vì khác biệt lợi ích tương tự giữa các thành viên.
Thế nhưng, với văn bản mới của EC, Biển Đông được nhắc đến 3 lần, Hoa Đông được đề cập 1 lần và Đài Loan được đề cập 5 lần.
EC còn khẳng định, Biển Đông là một trong các tuyến đường biển có “vai trò trọng yếu” với EU và trực tiếp ủng hộ một COC không phương hại lợi ích của bên thứ ba. Có thể, các diễn biến thực địa đã khiến các thành viên quan ngại sâu sắc hơn về các thách thức trên biển này.
Một điểm khác biệt về an ninh biển nữa là, văn bản tháng 4 nhắc đến hiện diện hải quân nhưng không nhắc tới tập trận hay diễn tập nào cụ thể, nhấn mạnh đóng góp “tự nguyện” của các quốc gia thành viên.
Tuy nhiên, văn bản mới khẳng định rõ ràng EU sẽ tiến hành nhiều tập trận chung hơn và điều tàu đến cập cảng nhiều hơn tại khu vực để bảo vệ tự do hàng hải – quan điểm khá gần với các tuyên bố của Mỹ tại khu vực.
Khác biệt này đáng chú ý bởi EU không có quân đội riêng. Tuy nhiên, EU vẫn có thể triển khai phương hướng này thông qua quân đội của các nước thành viên.
Bản thân một số nước “đầu tàu” EU đã đưa ra chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với nội dung này: Pháp cam kết tăng cường tập trận song – đa phương có Pháp tham gia và tự do đi lại tại Biển Đông; Đức cam kết tham gia tập trận chung và các “hình thức đa dạng” để hiện diện hải quân tại khu vực…
Một số điều cần chú ý
Văn bản chiến lược mới của EC, tiếp nối văn bản tháng 4/2021 và Nghị quyết mới ra của Nghị viện châu Âu về quan hệ EU-Trung Quốc, tiếp tục thể hiện tầm quan trọng của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với EU thời đại hậu Brexit.
Đây là khu vực EU có lợi ích kinh tế nhưng có nhiều thách thức về cạnh tranh địa chiến lược, thương mại và giá trị, ảnh hưởng đến trật tự dựa trên luật lệ có lợi cho khối.
Sự nhất quán này càng đáng nói hơn khi: EU có truyền thống phản đối các hoạt động an ninh ở quá xa châu Âu và gần EU có nhiều khu vực biển chiến lược khác như Đại Tây Dương hay Địa Trung Hải; và EU có 27 thành viên với những lợi ích khác nhau nên khó thống nhất quan điểm.
Chiến lược cũng cho thấy hai thay đổi trong cách tiếp cận với khu vực. Nếu như trước đây, EU dựa trên những hoạt động rời rạc, ít phối hợp của một số nước (lớn) trong tổ chức, thì hiện giờ, EU nhấn mạnh phối hợp chung giữa các thành viên và với các đối tác.
Ngoài ra, nếu như trước đây EU chủ yếu thúc đẩy hiện diện kinh tế và chính trị tại khu vực, thì hiện giờ, EU đã san sẻ nguồn lực sang lĩnh vực an ninh, nhất là an ninh biển và an ninh phi truyền thống.
Mặc dù có nhiều nội dung cụ thể hơn, văn bản mới của EC vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Văn bản không đề cập cạnh tranh Mỹ-Trung trong khu vực và vai trò của EU trong mối quan hệ này.
Văn bản cũng chưa có các phương hướng hợp tác cụ thể với Mỹ và Anh – hai quốc gia đang tăng cường hiện diện tại cùng khu vực.
Nếu không có phối hợp, việc gia tăng sự hiện diện của các nước ngoài khu vực có thể khiến cạnh tranh nước lớn tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thêm căng thẳng.
Bên cạnh đó, văn bản chưa làm rõ nội hàm một số khái niệm và ý tưởng hợp tác mới như Mạng lưới Ngoại giao mạng hay Thỏa thuận Đối tác số…
Văn bản của EC cũng phần nào bị “lu mờ” vì được đưa ra 1 ngày sau khi Anh, Mỹ, Australia công bố thỏa thuận quốc phòng AUKUS.
Như vậy, bản Chiến lược hợp tác của EU tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của EC có nhiều nội dung cụ thể hơn so với văn bản trước đó của EU hồi tháng 4/2021, đặc biệt là về các sáng kiến hợp tác và vấn đề an ninh biển. Hy vọng, văn bản sẽ là tiền để củng cố quan hệ khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.