Việt Minh đánh Pháp, vai trò của Mỹ: Các vấn đề trong sách mới
5 tháng 2 2022
\’The Road to Vietnam: America, France, Britain, and the First Vietnam War\’ là cuốn sách mới ra gần đây, của Tiến sĩ Pablo de Orellana, viết về Cuộc chiến Việt Nam lần thứ nhất.
Tác giả là giảng viên tại Khoa nghiên cứu chiến tranh, King\’s College London, Anh quốc.
Trong sách, tác giả đặt vấn đề tại sao Hoa Kỳ tham gia vào chiến tranh Việt Nam? Điều gì đã khiến Hoa Kỳ tin rằng Việt Nam là mối đe dọa đối với các lợi ích của Washington?
BBC News Tiếng Việt có cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Pablo de Orellana về các câu hỏi chính trong sách.
Tiến sĩ Pablo de Orellana: Chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất, như Ken Burns đã gọi trong loạt phim tài liệu về Việt Nam năm 2017, là một \’déja vu\’, cuộc chiến tranh thuộc địa báo trước việc Mỹ tham gia vào Việt Nam. Đối với các nhà sử học chúng tôi, đó là một cuộc chiến tranh thuộc địa quan trọng để nghiên cứu, vào năm 1945 khi Pháp gửi một đội quân khổng lồ để thiết lập lại quyền thống trị, cũng là cuộc chiến mà Hoa Kỳ bị lôi kéo vì chủ nghĩa chống cộng.
Cuốn sách của tôi, Con đường đến Việt Nam, nghiên cứu cách thức ngoại giao của Pháp để thuyết phục Hoa Kỳ rằng xung đột ở Việt Nam không phải liên quan chủ nghĩa thực dân Pháp mà là chủ nghĩa cộng sản.
Chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất đáng để nghiên cứu vì nó chứa đựng mầm mống tại sao cuộc chiến thứ hai, và nổi tiếng hơn, của Mỹ ở Việt Nam là không cần thiết. Thực tế là, người Mỹ có thể đã từ chối ủng hộ nỗ lực của thực dân Pháp và để mặc cho họ chiến đấu một mình, như đã làm sau đó ở Algeria.
Những người Việt Nam nổi dậy, trong một liên minh phức tạp gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, muốn giành độc lập và liên kết với Mỹ, Anh và Ấn Độ mới độc lập, và đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ các quốc gia này.
Cuối cùng, Pháp đã thành công trong việc thuyết phục người Mỹ rằng những người nổi dậy ở Việt Nam không phải là những người theo chủ nghĩa dân tộc thực sự, mà là những kẻ theo Liên Xô, trong \’kế hoạch tầm xa của Liên Xô nhằm chinh phục Đông Nam Á\’ và khiến Mỹ phải chi trả và hỗ trợ hầu hết các nỗ lực chiến tranh của Pháp, đặc biệt là từ năm 1948 đến năm 1952.
Nghiên cứu các nguồn nổi tiếng, cũng như các tài liệu lưu trữ của Pháp chỉ được phát hành vào cuối những năm 2000, cuốn sách của tôi khám phá các nỗ lực ngoại giao quy mô lớn, lặp đi lặp lại và phối hợp của Pháp nhằm đánh lừa người Mỹ ủng hộ Pháp chiến tranh thuộc địa dưới chiêu bài chống cộng sản. Nhiều nhà ngoại giao Mỹ lúc đó đã biết và cảnh báo rằng người Pháp đang phóng đại \’bóng ma Cộng sản\’, nhưng cuối cùng lập luận của Pháp đã thắng.
BBC: Đã từng có bức thư nổi tiếng của Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman vào tháng 2 năm 1946. Để chống lại quân Nhật ở Đông Dương, ông Hồ và lực lượng du kích Việt Minh đã từng phối hợp chặt chẽ với lực lượng đặc biệt Mỹ. Tuy nhiên, cuối cùng, chính sách đối ngoại của Mỹ đã không thừa nhận đảng của ông Hồ. Ông phân tích chương lịch sử này như thế nào trong sách?
Tiến sĩ Pablo de Orellana: Theo nhiều cách, toàn bộ cuốn sách của tôi nói về chính vấn đề này: làm thế nào mà người Mỹ lại bị thuyết phục rằng Việt Minh là một tay sai nguy hiểm của Liên Xô?
Cuốn sách trả lời câu hỏi này bằng cách xem xét cực kỳ chi tiết cách ngoại giao Hoa Kỳ, Pháp, Việt Nam và Anh nhìn nhận Việt Nam và quan điểm này phát triển như thế nào.
Trong bức thư nổi tiếng đó của ông Hồ Chí Minh gửi Truman năm 1946, và trong nhiều bức thư khác từ năm 1945 đến năm 1947, gửi cho Truman, Attlee, de Gaulle, Bidault và Byrne và thậm chí gửi tới phiên khai mạc của LHQ tại San Francisco, tất cả đã được phân tích trong sách của tôi. Trong đó, Việt Minh đề xuất được dẫn dắt bởi các cường quốc phương Tây trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Cụ thể, họ yêu cầu Mỹ và Anh giúp Pháp xem xét cách trao độc lập như với Ấn Độ, sẵn sàng trao cho Pháp những đặc quyền lớn trong một thỏa thuận giống như Khối thịnh vượng chung. Việt Minh đã cộng tác chặt chẽ với lực lượng đặc biệt của Mỹ (OSS, tiền thân của CIA) trong Thế chiến thứ hai và trong một thời gian ngắn, ông Hồ đã hỗ trợ OSS với tư cách là điệp viên và sử dụng mật danh \’Lucius\’.
Nhiều người Mỹ, từ Roosevelt đến các nhà ngoại giao ở thực địa, rất thông cảm với chính nghĩa của Việt Nam, như tôi ghi lại rất chi tiết, và cảnh báo các sếp của họ ở Washington rằng người Pháp đang sử dụng \’trò lừa đảo cộng sản\’ để nhờ Mỹ giúp tái chiếm Đông Dương.
Trong cả năm 1945, 1946 và phần lớn năm 1947, người Mỹ đã không tin luận điểm \’ma quỷ cộng sản\’. Tuy Mỹ cung cấp một số hỗ trợ, họ vẫn khuyến khích người Pháp áp dụng một giải pháp như Mỹ đã làm ở Philippines năm 1946 và Anh ở Ấn Độ năm 1947.
Trong khi đó, các nhà ngoại giao Pháp đã nghiên cứu chi tiết việc \’bán\’ ý tưởng cho người Mỹ và kết luận rằng chứng minh Việt Minh là một phần trong nỗ lực của Liên Xô nhằm chinh phục Đông Nam Á là cách duy nhất. Nghiên cứu của tôi với hơn 8.000 tài liệu ngoại giao được lưu trữ từ cả bốn quốc gia cho thấy Pháp muốn chứng tỏ, thứ nhất, rằng Việt Minh là quân của Liên Xô và thứ hai, Pháp mong muốn \’cuối cùng\’ trao cho Việt Nam độc lập.
Nhưng điều này là không thể do Cộng sản nguy hiểm. Sau cuộc đàm phán Fontainebleau năm 1946 – bị phá hoại bởi Thống đốc Đông Dương và Đô đốc Georges Thierry d\’Argenlieu – người Mỹ đã hết sức chỉ trích việc Pháp từ chối cho phép người Việt Nam tự quyết, nhưng Mỹ vẫn lo ngại về chủ nghĩa Cộng sản.
Điều này có nghĩa là, đối với ngoại giao của Pháp, điều quan trọng là phải chứng minh rằng Việt Minh là quân cờ kiểu Stalin của Liên Xô. Điều này thật khó khăn vì mặc dù một phần của Việt Minh là cộng sản cuồng nhiệt, bao gồm cả những nhân vật chủ chốt như Võ Nguyên Giáp, nhưng họ cũng bao gồm một loạt các chính trị gia ủng hộ độc lập khác, từ những người theo chủ nghĩa quân chủ đến Quốc Dân Đảng.
Điều quan trọng là, các đảng viên cộng sản của họ không liên kết với Liên Xô hoặc Trung Quốc và đảng này không nhận được bất kỳ sự ủng hộ nào từ bên ngoài của phe cộng sản – thực tế là đảng Cộng sản Pháp, có thể được hướng dẫn bởi Liên Xô, đã bỏ phiếu cho cuộc chiến chống lại phe cộng sản Việt Nam.
Các nhà ngoại giao Pháp liên tục đưa ra các cáo buộc về \”bằng chứng\” rằng Việt Minh là công cụ của Liên Xô, nhưng các đối tác Mỹ của họ không thể tìm ra cơ sở nào để chứng minh cho những tuyên bố đó. Trong một ví dụ vui nhộn, phái bộ châu Á đầu tiên của CIA đã tìm kiếm bằng chứng về việc một đội ngũ \’cố vấn Liên Xô\’ ở miền Nam Trung Quốc đang hướng tới Việt Nam, chỉ để phát hiện ra một nhóm nhỏ \’những kẻ lang thang\’ của Nga đang chết đói \’trốn thoát\’ qua Trung Quốc.
\”Bằng chứng\” cuối cùng, vào cuối năm 1947, do Sureté của Pháp (cảnh sát mật thuộc địa) ngụy tạo, không bao giờ được chứng minh, nhưng đã trở nên có ảnh hưởng bởi vì Vương quốc Anh đã xác nhận nó. Do Anh cũng tìm cách tận dụng sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho cuộc chiến chống lại quân nổi dậy cộng sản ở Malaya, Ngoại trưởng Bevan đã xác nhận \”bằng chứng\” của Pháp, mà các nhà ngoại giao Anh không tin là đáng tin cậy, về các động thái của Liên Xô ở Đông Nam Á và Việt Nam.
Từ năm 1948, sự trợ giúp của Hoa Kỳ cho Pháp đã tăng lên ồ ạt, và cam kết của họ đã tăng lên đến mức Hoa Kỳ vẫn ở lại Việt Nam ngay cả sau khi người Pháp từ bỏ việc tái chiếm thuộc địa. Nỗi sợ hãi của họ đã trở thành một lời tiên tri tự ứng nghiệm: từ năm 1948, Việt Minh đã trải qua một quá trình Cộng sản hóa và tìm kiếm sự giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô để chống lại người Pháp.
Xung đột này và các động lực của nó sẽ tác động sâu sắc đến các xung đột sau này của Việt Nam. Rõ ràng nhất, cam kết của Hoa Kỳ đối với chủ nghĩa chống cộng sản ở Việt Nam được hình thành vào cuối những năm 1940 sẽ buộc Hoa Kỳ tham gia một cuộc chiến rất dài 1965-1975.
Nhưng hình dạng của cuộc xung đột này cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến của Pháp ở Việt Nam. Ví dụ, chiến dịch \’Chúa Giêsu đi vào Nam\’ do Pháp hỗ trợ đã đưa đi phần lớn cơ sở cộng tác viên Công giáo thuộc địa của Pháp do d\’Argenlieu thành lập, bao gồm cả Ngô Đình Diệm, vào miền Nam, mà sau này sẽ hình thành cốt lõi nhà nước miền Nam Việt Nam ở cuối những năm 1950.
Đối với Pháp, kết quả rất lộn xộn: một mặt, những chiến thắng của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho các đối tượng thuộc địa của Pháp ở những nơi khác, mặt khác, cuộc chiến tạo nên sự khốc liệt, đặc biệt là cho các tướng lĩnh như Salan, người đã chiến đấu ác liệt tại Algeria và, khi trên bờ vực thất bại, đã phát động một cuộc đảo chính tại chính nước Pháp, thậm chí xâm lược Corsica vào năm 1958, để buộc Pháp tiếp tục chiến đấu cho sự hùng mạnh của thuộc địa của mình.
BBC:Sự phân biệt chủng tộc có góp phần giúp cho luận điểm rằng phe nổi dậy Việt Nam là quân bài của Liên Xô?
Tiến sĩ Pablo de Orellana: Phân biệt chủng tộc, và đặc biệt là các biểu hiện thuộc địa của nó, là một phần quan trọng của chính sách ngoại giao được nghiên cứu trong cuốn sách của tôi. Trên thực tế, đó là một điều kiện quan trọng để các tuyên bố của Pháp có vẻ đáng tin cậy đối với các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ.
Cuối năm 1946, các nhà ngoại giao Pháp bắt đầu so sánh người Việt Nam với người Mỹ gốc Phi, đặc biệt là về \’bản chất chính trị\’ của họ, mà họ định nghĩa là \’phương Đông\’, \’lười biếng\’ và \’phi chính trị\’, được hiểu là có nghĩa – và thường được tuyên bố rõ ràng – rằng Việt Nam không thể có một cuộc tấn công thành công như vậy vào một cường quốc châu Âu nếu không có sự chỉ đạo và hỗ trợ \’tiên tiến\’ của nước ngoài.
Nói cách khác, vì không có bằng chứng về sự tham gia của Liên Xô, phân biệt chủng tộc, đặc biệt là ngụ ý về sự kém cỏi và sự bất lực về chính trị của người Việt Nam, là bằng chứng cho thấy Liên Xô đứng sau cuộc nổi dậy. Hơn nữa, về phía người Mỹ, có sự hoài nghi nghiêm trọng và gay gắt rằng người châu Á làm sao có thể tổ chức và chiến đấu một cuộc cách mạng giành độc lập chống thực dân như của Mỹ.
Chính chủ nghĩa phân biệt chủng tộc thuộc địa này đã thấm nhuần vào mọi tư duy, quân sự, dân sự và chính trị của người Pháp. Ví dụ, họ bị thuyết phục rằng đàn ông Việt Nam yếu đuối, ẻo lả và trẻ con – đó là lý do tại sao họ mặc quần đùi cho lính nghĩa vụ Việt Nam.
Trong vài trang cuối của cuốn sách, tôi thuật lại những ngày cuối cùng của trận Điện Biên Phủ và vai trò lan tỏa của những giả định phân biệt chủng tộc này. Ví dụ, chỉ huy pháo binh Pháp, Đại tá Piroth bị thuyết phục về sự kém cỏi của người Việt Nam đến nỗi ông ta cho rằng Việt Nam sẽ không bao giờ bố trí được các trận địa pháo phối hợp bắn nhanh vào pháo đài.
Tuy nhiên, những người lính của Tướng Giáp đã nâng pháo lên những ngọn đồi xung quanh và thực hiện chính xác điều đó -Piroth đã tự sát, và trong vài tuần, người Việt Nam đã chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất.
Vấn đề không phải là ngẫu nhiên, kiểu phân biệt chủng tộc thuộc địa này đã xâm nhập vào quân đội và cơ sở thuộc địa của Pháp vào thời điểm đó, và theo một số cách, nó vẫn đang xảy ra. Những nhân vật chủ chốt của Pháp thời đó như d\’Argenlieu, Salan, và cựu Thủ tướng Bidault, đã hoàn toàn bị thuyết phục, như de Gaulle đã tuyên bố vào năm 1946, rằng việc thống trị các dân tộc khác chứng tỏ ưu thế của người Pháp.
Đó là lý do tại sao Pháp cố gắng giữ chân một cách tàn nhẫn tại các thuộc địa trong các cuộc chiến tranh khủng khiếp và phân biệt chủng tộc ở Việt Nam, Madagascar và Algeria. Điều này cũng khiến các quan chức Pháp như Sainteny bị gạt sang một bên hoàn toàn, những người cảm thấy rất xấu hổ khi đất nước của họ đã từ chối người Việt Nam có được Quyền của Con người mà người Pháp đã giành cho họ vào năm 1789.
BBC: Theo ông, Hồ Chí Minh khi đó là người cộng sản hay dân tộc? Chủ đề này khiến chính giới Mỹ ám ảnh trong suốt giai đoạn từ thập niên 1940 đến 1960.
Tiến sĩ Pablo de Orellana: Tôi nghĩ Hồ Chí Minh vừa là một người theo chủ nghĩa dân tộc vừa là một người cộng sản. Ông là một người theo chủ nghĩa dân tộc với ý nghĩa đòi hỏi cho Việt Nam quyền tự trị mà các quốc gia khác có, và là một người cộng sản trong các ý tưởng xã hội, phát triển và kinh tế, cũng như các công cụ cách mạng mà ông đã triển khai hiệu quả như tờ báo vẽ tay Độc-Lập và các cơ cấu ủy ban địa phương.
Công bằng mà nói, Việt Minh rất đa dạng, mặc dù có những người cộng sản rất tận tâm như Võ Nguyên Giáp, nhiều nhân vật chủ chốt như chính ông Hồ đã ưu tiên độc lập trên hết, thoát khỏi thực dân Pháp, và khỏi Trung Quốc và Liên Xô.
Sự cân bằng này thay đổi theo thời gian, và vào năm 1948, chúng ta thấy một quá trình cộng sản hóa mà tôi tự hỏi, có thể là kết quả của cả một chiến thắng nội bộ của những người Cộng sản ở Việt Nam, và còn do sự cần thiết, từ năm 1949, để bảo đảm sự ủng hộ của Trung Quốc.
Tôi nghĩ, câu hỏi quan trọng không phải là liệu ông Hồ và Việt Minh có phải là cộng sản theo nghĩa nội bộ trong nước hay không (ông ta kém cộng sản hơn nhiều so với những người cộng sản Pháp hay Ý vào những năm 1940), mà là liệu họ có nằm dưới sự kiểm soát của Stalin hay không và do đó sẽ phục vụ lợi ích quốc tế của Liên Xô.
Cuốn sách của tôi lập luận rằng câu trả lời cho điều này từ những năm 1930 đến 1948 là không. Ngay cả khi chúng ta không coi những tuyên bố của ông Hồ là đáng tin hết, thì đối với tôi, tôi thấy rõ ràng rằng ông Hồ có thể đã tìm cách vạch ra một lộ trình của chủ nghĩa cộng sản độc lập, giống như Tito ở Nam Tư.
Tuy nhiên, điều cốt yếu cũng phải nhấn mạnh rằng ngay cả khi cán cân quyền lực trong Việt Nam thay đổi theo hướng có lợi cho nhiều đảng viên cộng sản hơn, một quá trình đã diễn ra nhanh chóng sau khi Hoa Kỳ cam kết hoàn toàn ủng hộ Đế quốc Pháp vào tháng 9 năm 1947, thì họ vẫn chưa bao giờ trở thành con bài của Liên Xô mà Hoa Kỳ vô cùng lo sợ, vì họ quyết liệt giữ độc lập của mình với Trung Quốc và Liên Xô.
Đáng buồn thay, điều này sẽ không trở nên rõ ràng cho đến khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam vào năm 1979, phá tan những gì còn lại trong tưởng tượng về một âm mưu cộng sản toàn cầu.
BBC: Ông cho rằng chính khách Mỹ và Pháp đã sai lầm trong và sau Chiến tranh Việt Nam lần một? Nói cách khác, lẽ ra họ có thể làm khác đi, hay ai lúc đó cũng bị hạn chế vì các tính toán địa chính trị?
Tiến sĩ Pablo de Orellana: Sai lầm thực sự đối với Hoa Kỳ là một sai lầm cứ đã tái diễn.
Việc đưa tất cả các mối quan hệ quốc tế với tầm nhìn địa chính trị quá đơn giản về các cuộc đấu tranh của người Mỹ chống lại chủ nghĩa cộng sản, và sau đó là Cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, có nghĩa là nhiều quốc gia, như Pháp trong những năm 1940, đã có thể tìm kiếm sự hỗ trợ của Hoa Kỳ chống lại những kẻ thù mà họ gán cho là nguy hiểm cho Mỹ. Ví dụ, Morocco và Mali, đã nhận được sự giúp đỡ của Hoa Kỳ trong những năm 2000 chống lại những kẻ thù cũ bằng cách coi họ là những kẻ kích động Chủ nghĩa khủng bố.
Điều này có thể tránh được, cả trong những năm 1940 và những năm 2000. Như cuốn sách của tôi cho thấy, các nhà ngoại giao Mỹ ở Đông Dương đã đưa ra những thông tin tốt đáng để quan tâm kỹ hơn. Ví dụ, vào những năm 1940, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đưa ra quan điểm rằng Hoa Kỳ nên theo phe chống thực dân, và ít nhất là từ chối ủng hộ việc Pháp tái chiếm thuộc địa.
Nếu đúng như vậy, Hoa Kỳ sẽ tránh được sự can dự thảm khốc của mình vào Việt Nam, với tất cả những hậu quả quốc tế và trong nước. Chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất sẽ ngắn hơn, và Pháp sẽ phải chiến đấu một mình, như sau này đã xảy ra trong Chiến tranh Algeria. Hơn nữa, rất có thể ông Hồ, người ngưỡng mộ Hoa Kỳ và coi Mỹ là tấm gương thành công lớn nhất của cuộc cách mạng thời hậu thuộc địa, đã giữ cho một Việt Nam thời hậu thuộc địa tiến gần hơn với Hoa Kỳ.
Trớ trêu thay, điều này hiện đang xảy ra: Việt Nam, từ lâu đã thể hiện sự quyết liệt và kiên định độc lập khỏi Trung Quốc Cộng sản, có lẽ đang trở thành đồng minh tiềm năng quan trọng của Hoa Kỳ trong khu vực.
Mặt khác, đối với Pháp, không thể nói rằng cuộc chiến kinh hoàng và cách tiếp cận chiến thắng bằng mọi giá này là một sai lầm. Đó là chính sách của Pháp: kết quả trực tiếp của hệ tư tưởng tại Pháp đang tuyệt vọng chứng tỏ ưu thế của người Pháp.
Đây là lý do tại sao Pháp sẽ chiến đấu tàn bạo để đàn áp các phong trào đòi độc lập trong đế chế của mình, ở Madagascar và Algeria cũng như ở Việt Nam. Đây là lý do tại sao bất kỳ và tất cả các phương tiện sẽ được triển khai để giành chiến thắng trong các cuộc chiến này.
Từ việc tuyển mộ hàng nghìn cựu binh lính Đức để chiến đấu tại Việt Nam, đến việc cố ý thực hiện các hành động tàn bạo và tội ác trong các cuộc chiến này, và cũng là lý do tại sao những cuộc chiến này mang tính chất chủng tộc thực sự.
Hơn nữa, sự gắn bó sâu sắc của một số giới tinh hoa quân sự Pháp, được thể hiện rõ nhất bởi những nhân vật như Salan và d\’Argenlieu, cũng như những nhà chính trị như de Gaulle và Bidault, với chế độ thuộc địa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nước Pháp.
Họ thường xuyên đánh lừa Quốc hội Pháp để giữ cho các cuộc chiến tiếp diễn, và thậm chí còn tiến hành một cuộc đảo chính chống lại chính phủ Pháp vào năm 1958 để buộc Pháp tiếp tục chiến đấu ở Algeria. Thật bi thảm, như từ cách những nhân vật này vẫn là anh hùng đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc Pháp, những ý tưởng như vậy vẫn có ảnh hưởng ở Pháp ngày nay.