- Lê Chiêu Thống :\”Cõng rắn cắn gà nhà \”
Lê Chiêu Thống tên thật là Lê Duy Kỳ, lại có tên khác là Lê Tư Khiêm, sinh năm 1765. Sử cũ cho biết, Lê Chiêu Thống là con trưởng của Thái tử Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông. Trước đó, Thái tử Lê Duy Vĩ bị Chúa Trịnh Sâm giết hại vào tháng 12 năm 1771. Năm 1786, vua Lê Hiển Tông mất. Trước đó 4 năm (năm 1782), Chúa Trịnh Sâm cũng đã qua đời, triều thần nhân đó đã đưa Lê Duy Kỳ lên nối ngôi. Bấy giờ, Nguyễn Huệ đang có mặt tại kinh thành Thăng Long và thể theo đánh giá của Ngọc Hân về nhân cách của Lê Duy Kỳ, Nguyễn Huệ không thật sự bằng lòng với việc đưa Lê Duy Kỳ lên ngôi. Tuy nhiên, mọi việc sau đó cũng được thu xếp ổn thỏa, chỉ tiếc là quan hệ giữa Nguyễn Huệ với Lê Duy Kỳ vì thế mà gặp nhiều trở ngại. Lê Duy Kỳ vừa rất căm tức, lại vừa rất sợ hãi Nguyễn Huệ.
Từ khi được đưa lên ngôi, Lê Duy Kỳ (lấy niên hiệu là Chiêu Thống, từ đây xin gọi theo cách gọi phổ biến là Lê Chiêu Thống) hầu như không mấy khi được ở yên trong hoàng cung. Nỗi lo lắng về sự trỗi dậy của thế lực ủng hộ họ Trịnh cộng với sự sợ hãi đối với Tây Sơn đã khiến cho Lê Chiêu Thống phải nhiều phen bôn tẩu lao đao. Đường bôn tẩu cũng là đường đắng cay. Dần dần, văn thần và võ tướng đều từ bỏ Lê Chiêu Thống, thậm chí, còn công khai chống lại Lê Chiêu Thống. Chuyện điển hình đáng cười ra nước mắt hơn cả có lẽ là chuyện Lê Chiêu Thống với Nguyễn Cảnh Thước (võ quan, người làng Đô Lương, huyện Nam Đàn, Nghệ An).
Tháng 12 năm 1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy đã tiến ra Thăng Long để hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh thua trận, Lê Chiêu Thống rất bối rối. Bấy giờ có quan giữ chức Tham tri Chính sự là Nguyễn Khuê (người làng Đặng Xá, huyện Chân Phúc, nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ An, đỗ Tiến sĩ năm 1787) đến bàn với Lê Chiêu Thống rằng:
“Trấn thủ Kinh Bắc là Nguyễn Cảnh Thước, khí chất hùng mạnh và mưu lược hơn người, rất đáng được tin cậy, vậy ta hãy giữ lấy Kinh Bắc làm nơi thủ thế. Nơi đó có thành lũy vững chắc, có sông Cái ( tức sông Hồng) ngăn cách. Từ Kinh Bắc, ta phát lời kêu gọi cần vương thì có thể dễ dàng thông tin đi khắp các xứ, trên thì Thái Nguyên và Sơn Tây, dưới thì Hải Dương và Sơn Nam… chẳng mấy chốc mà có thể tập hợp được đại binh. Sau ta sẽ tùy thời mà hành động, ắt sẽ có ngày phục hưng” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 16).
Lê Chiêu Thống nghe theo, bèn đi sang Kinh Bắc (nay đại thể tương ứng với vùng Bắc Ninh và Bắc Giang). Đến nơi, kẻ theo hầu chỉ còn dăm bảy người nữa mà thôi. Nhưng Nguyễn Cảnh Thước cáo bệnh, đóng cửa thành lại, không chịu tiếp đón Nhà vua! Vừa buồn vừa tức, Lê Chiêu Thống đành phải tìm chốn dung thân ở nơi khác. Chẳng dè, vừa đi được một quãng thì “Nguyễn Cảnh Thước tung thủ hạ ra cướp hết mọi của cải do bọn hầu ngự giá mang theo. Chúng còn đuổi theo Nhà vua và lột cả tấm hoàng bào của Nhà vua nữa. Nhà vua đau xót đến rơi cả nước mắt nhưng cũng đành phải cởi ra để trao cho chúng” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 17).
Từ đây, Lê Chiêu Thống hết lên ngược lại về xuôi, hết vào Nam lại ra Bắc, gian nan trở ngại không thể nào kể hết. Dưới đây xin theo ghi chép của thư tịch cổ, lược ghi mấy sự kiện chính như sau:
– Tháng 12 năm 1787, sau khi bị thủ hạ của Nguyễn Cảnh Thước cướp bóc hết của cải, Lê Chiêu Thống chạy đến vùng Yên Thế (nay thuộc Bắc Giang), nương nhờ ở một tướng cướp cũ là Dương Đình Tuấn (người làng Dương Lâm, huyện Yên Thế, nay thuộc Bắc Giang).
– Tháng 2 năm 1788, sau một thời gian được Dương Đình Tuấn hết lòng phò tá, Lê Chiêu Thống bỗng lo sợ là Dương Đình Tuấn sẽ ăn ở hai lòng, do vậy bỏ Yên Thế chạy đến Gia Định (nay thuộc Bắc Ninh). Kẻ theo hầu chỉ còn chừng dăm ba người nữa mà thôi.
– Ở Gia Định chỉ được mấy ngày, Lê Chiêu Thống lại chạy về Chí Linh (nay thuộc Hải Dương). Nhờ sự ủng hộ của một số thổ hào địa phương, Lê Chiêu Thống tạm yên được một thời gian ngắn.
– Tướng cũ của Chúa Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng lúc bấy giờ đang ở Đông Triều (nay thuộc Quảng Ninh), nghe tin Lê Chiêu Thống ở Chí Linh, liền đem quân tới đánh. Dân binh Chí Linh đánh giết được 2 em của Đinh Tích Nhưỡng là Đinh Vũ Sầm và Đinh Vũ Kính, khiến Đinh Tích Nhưỡng hoảng sợ mà bỏ chạy, Lê Chiêu Thống mới được tai qua nạn khỏi.
– Sau cuộc đụng độ với Đinh Tích Nhưỡng ở Chí Linh, Lê Chiêu Thống chạy ra Thủy Đường (xưa thuộc Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng). Ở Thủy Đường chưa ấm chỗ Lê Chiêu Thống lại chạy vào Vị Hoàng. Nói theo cách nói của sử cũ là Lê Chiêu Thống phải “long đong xuôi ngược, hết sang đông lại lên bắc”.
– Mới đến Vị Hoàng, chưa kịp ổn định nơi ăn chốn ở, Lê Chiêu Thống đã bị Ngô Văn Sở đem quân Tây Sơn tới đánh. Lê Chiêu Thống hốt hoảng chạy đến vùng Quần Anh (tên xã thuộc huyện Nam Chân, nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) và tại đây, một trận bão đã nổi lên, chiến thuyền của Lê Chiêu Thống trôi dạt đến Thiết Giáp (tên xã xưa của huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Từ Thiết Giáp, Lê Chiêu Thống đi bộ đến Kim Bảng (tên huyện lỵ của huyện Kim Bảng xưa, nay thuộc tỉnh Hà Nam) và sau đó lại đi ra Kinh Bắc.
– Tháng 7 năm 1788, mẹ của Lê Chiêu Thống từ Cao Bằng được sự giúp đỡ của Hoàng Ích Hiểu (người Cao Bằng, xuất thân là võ quan, lúc này đang là Địch Quận công), Lê Quýnh (người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại, nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Lê Quýnh là con của Tiến sĩ Lê Doãn Giản và là cháu gọi Tiến sĩ Lê Doãn Thân bằng chú ruột. Tuy nhiên, bản thân Lê Quýnh thì không đỗ đạt gì) và Nguyễn Quốc Đống (người làng Tì Bà, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Quốc Đống là anh ruột của Hoàng phi Nguyễn Thị Kim (vợ Lê Chiêu Thống), mẹ đẻ đứa con trai của Lê Chiêu Thống được đưa sang Trung Quốc), đã đem con trai của Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc.
– Tại Trung Quốc, mẹ của Lê Chiêu Thống và đám tùy tùng nói trên đã gặp Tôn Sĩ Nghị (võ quan cao cấp của nhà Mãn Thanh, lúc này đang giữ chức Tổng đốc Lưỡng Quảng) và Tôn Vĩnh Thanh (văn thần cao cấp của nhà Mãn Thanh, lúc này đang giữ chức Tuần Phủ tỉnh Quảng Tây). Sử cữ chép rằng:
“Bọn (Tôn) Sĩ Nghị tâu với vua Thanh là Tự Hoàng nhà Lê (chỉ vua Lê Chiêu Thống) đang phải bôn ba, xét nghĩa lớn thì ta nên cứu. Vả chăng, An Nam vốn dĩ là đất xưa của Trung Quốc, cho nên, khi giúp khôi phục được nhà Lê rồi, ta cũng có thể nhân đó mà đặt đồn binh canh giữ. Vậy là ta vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lại được An Nam, thật đúng là làm một việc mà được hai điều lợi” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47 tờ 33; Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 12 cũng chép tương tự).
– Nhận được lời tâu trên, vua Thanh lúc này là Càn Long lập tức đồng ý. Một kế hoạch xua quân sang mượn cớ phù Lê diệt Tây Sơn để xâm lược nước ta nhanh chóng được vạch ra. Nhận được tin này, Lê Chiêu Thống thực sự vui mừng, liền sai tay chân sang Trung Quốc để chuẩn bị đón rước quân Mãn Thanh.
Như vậy là đến đây, Lê Chiêu Thống đã đi từ chỗ chống đối Tây Sơn đến chỗ hại dân và phản quốc. Đời thật khó mà dung tha hành vi nhục nhã này.
- Quân Thanh sang xâm lược nước ta
Theo lệnh của Càn Long, Tổng đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị đã nhanh chóng tổ chức cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Công việc chuẩn bị này bao hàm mấy bước với những nội dung cụ thể như sau:
“Trước hết, tung ra chừng vài trăm tờ hịch để tuyên bố cho gần xa đều biết” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 33) việc nhà Thanh sắp sửa xuất quân sang nước ta. Chính Càn Long trong một chỉ dụ gửi cho Tôn Sĩ Nghị cũng đã nói rõ như thế: “Cứ từ từ mà làm, không việc gì phải vội vã, trước hãy truyền hịch để gây thanh thế…” (Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30).
– Hạ lệnh cho quan Tri phủ ở Điền Châu giúp đám tay chân của Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, đứng ra tập hợp lực lượng chống Tây Sơn, đồng thời tuyển mộ thêm quân sĩ để sẵn sàng phối hợp với quân của Tôn Sĩ Nghị.
– Nhanh chóng huy động quân lính, sẵn sàng tràn sang nước ta khi có chiếu chỉ của Càn Long. Tôn Sĩ Nghị đã huy động được 29 vạn quân chiến đấu và hàng chục vạn dân phu.
Cuối năm 1788, khi công cuộc chuẩn bị đã tương đối chu tất, Càn Long hạ chiếu phong cho Tôn Sĩ Nghị làm Chinh Man Đại tướng quân, nắm quyền tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân Thanh sang xâm lược nước ta, Tổng đốc Vân Quý (tức Vân Nam và Quý Châu) là Phúc Khang An chịu trách nhiệm huy động và vận tải lương thực cho đạo quân xâm lược khổng lồ này. Tôn Sĩ Nghị chia quân làm 3 đạo, tiến vào nước ta qua 3 ngả khác nhau:
Đạo thứ nhất do tướng Ô Đại Kinh chỉ huy. Ô Đại Kinh nguyên là Đề đốc ở Vân Nam và Quý Châu. Đạo này từ Vân Nam, qua Mã Bạch Quan (Cửa ải ở biên giới Việt Trung, phía ta thuộc Hà Giang) rồi xuống Hà Giang, Tuyên Quang, băng qua Thái Nguyên, về Hà Bắc và tiến xuống Thăng Long (Chúng tôi kể theo địa danh hiện đại, cốt dễ hình dung).
Đạo thứ hai do Sầm Nghi Đống chỉ huy, tiến vào nước ta qua ngả Cao Bằng. Đạo này, ngoài quân Trung Quốc, còn có cả lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống đang lưu vong ở Trung Quốc mới được Sầm Nghi Đống tuyển mộ.
Đạo thứ ba là đạo chủ lực, do đích thân Tôn Sĩ Nghị cầm đầu. Dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị còn có các tướng khác như:
- Đề đốc Hứa Thế Hanh giữ chức Phó tướng.
- Tổng binh Thượng Duy Thăng và Tổng binh Khánh Thành chỉ huy các đơn vị bộ binh huy động được từ tỉnh Quảng Tây.
- Tổng binh Trương Triều Long và Tổng binh Lý Hóa Long chỉ huy các đơn vị bộ binh huy động được từ tỉnh Quảng Đông.
Đạo thứ ba này tiến vào nước ta qua ngả Lạng Sơn. Ngày 28 tháng 10 năm Mậu Thân (nhằm ngày 25-11-1788 tính theo dương lịch), cả 3 đạo quân nói trên đều nhất loạt xuất phát. Khẩu hiệu hành quân của Tôn Sĩ Nghị là phò Lê diệt Tây Sơn. Chỉ dụ của Càn Long gởi cho Tôn Sĩ Nghị trước lúc Tôn Sĩ Nghị xuất quân đã nói khá rõ mưu đồ của nhà Thanh đối với nước ta lúc bấy giờ:
“Trước hãy truyền hịch để gây thanh thế, sau đó thì để bọn cựu thần nhà Lê về nước tìm Tự Quân của nhà Lê, khiến chúng ra đối địch với Nguyễn Huệ. Giá thử (Nguyễn) Huệ mà bỏ chạy thì cho Tự Quân của nhà Lê đuổi theo, ta chỉ nên đi tiếp ứng mà thôi. Đó là thượng sách vì không khó nhọc mà vẫn thành công.
Người trong nước họ, nếu một nửa theo (Nguyễn) Huệ mà (Nguyễn) Huệ không chịu rút quân, thì phải nhờ thủy binh ở Mân Quảng (vùng Phúc Kiến và Quảng Đông của Trung Quốc) vượt biển đánh vào Thuận Quảng rồi từ đó đánh ra, kế đến bộ binh mới tiến. Hai mặt trước sau đều bị đánh thì tất nhiên (Nguyễn) Huệ phải chịu quy phục. Ta sẽ nhân đó mà ràng buộc cả hai. Từ Thuận Quảng vào Nam thì chia cấp cho Nguyễn Huệ, từ Hoan Ái (vùng từ Hà Tĩnh đến Thanh Hóa ngày nay) trở ra thì chia cấp cho nhà Lê, còn ta thì đóng đại binh ở giữa để kiềm chế cả hai, sau sẽ có cách xử trí khác” (Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30).
Trước khi lên đường, Tôn Sĩ Nghị ban bố cho toàn quân 8 điều quân luật, trong đó có những điều luật nói rất rõ về cách đề phòng voi chiến và hỏa hổ (ống phun lửa) của Tây Sơn. Tóm lại, đội quân xâm lược Mãn Thanh vừa rất đông đảo, vừa được chuẩn bị rất chu tất và có quyết tâm rất cao. Một lần nữa, nền độc lập của nước nhà bị đe dọa nghiêm trọng. Cũng một lần nữa, Tây Sơn đứng trước một thử thách hết sức cam go. Thành bại của Tây Sơn lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào thành bại của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh.
- Tình hình Bắc Hà trước Tết Kỷ Dậu (1789)
Khi quân Thanh bắt đầu tràn vào nước ta, lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống dần dần ngóc đầu dậy, xã hội Bắc Hà bị phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất là sẵn sàng sát cánh với Tây Sơn để chống quân xâm lược, chống hành vi phản dân hại nước xấu xa của Lê Chiêu Thống. Xu hướng thứ hai, do bị ảnh hưởng mạnh mẽ của quan niệm về giềng mối chính thống, đã tìm mọi cách để giúp đỡ Lê Chiêu Thống. Xu hướng thứ ba là bi quan và chán nản, họ không đứng về Tây Sơn nhưng cũng không chịu hợp tác với Lê Chiêu Thống. Tất nhiên, đó là ba xu hướng lớn chứ không phải là tất cả các xu hướng nhận thức và ứng xử khác nhau của Bắc Hà đương thời. Bối cảnh ấy đã đặt quân Tây Sơn trước những khó khăn rất lớn. Bấy giờ, Ngô Văn Sở đã có 4 quyết định rất quan trọng:
- Một là, cử người về Phú Xuân cấp báo cho Nguyễn Huệ rõ những diễn biến phức tạp của tình hình ở Bắc Hà, đồng thời, xin mệnh lệnh của Nguyễn Huệ.
- Hai là, cử một phái đoàn gồm chủ yếu là các cựu thần của nhà Lê như Nguyễn Quý Nha (hiện chưa rõ lai lịch), Trần Bá Lãm (người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đỗ Chế khoa Xuất thân (ngang với Tiến sĩ ) năm 1787), Vũ Huy Tấn (người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ đầu khoa thi Hương năm 1768. Thời Quang Trung, làm quan tới chức Thượng thư), Nguyễn Đình Khoan (người huyện Văn Giang, nay thuộc Hưng Yên, đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ), Lê Duy Chử (hiện chưa rõ lai lịch), Nguyễn Đăng Đàn (hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết vào tháng 7 năm 1778, ông từng được Chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Sâm cử giữ chức Án sát trấn Yên Quảng – vùng Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay).… đem bức thư ký tên Giám Quốc Lê Duy Cận, cùng với một tờ bẩm ký tên các hào mục nước ta, lên tận biên giới để trao cho Tôn Sĩ Nghị, xin được “nghị hòa”. Đó thực ra chỉ là một trong những biện pháp cốt góp phần làm trì hoãn bước tiến của quân Thanh mà thôi.
- Ba là, chấp thuận cho một số võ tướng đem quân lên biên giới sẵn sàng làm nhiệm vụ đánh chặn khi quân Thanh tràn sang nước ta.
- Bốn là, tổ chức cuộc hội nghị quân sự cao cấp tại kinh thành Thăng Long nhằm thống nhất về phương hướng đối phó với quân xâm lược Mãn Thanh.
Tại cuộc hội nghị quân sự cao cấp tổ chức ở Thăng Long, Bộ chỉ huy Tây Sơn đã nhất trí với chủ trương chung là: tạm thời lui quần về Tam Điệp và Biện Sơn (nằm tiếp giáp giữa 2 tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình) để bảo toàn lực lượng, chờ đại quân của Nguyễn Huệ ra rồi mới đánh trận quyết định với quân xâm lược Mãn Thanh. Bởi chủ trương chung này, quân Mãn Thanh đã tràn vào Thăng Long tương đối dễ dàng.
Nghe tin quân chủ lực Tây Sơn đã rút khỏi Thăng Long và đồng bằng Bắc Hà, Tôn Sĩ Nghị rất tức tối. Hắn đổ tội cho Lê Chiêu Thống, cho Lê Chiêu Thống và đám tay chân là hèn nhát và kém cỏi, không làm nên được tích sự gì, và “có Lê Chiêu Thống cũng kể như không”. Lê Chiêu Thống phải cúi đầu năn nỉ mãi, Tôn Sĩ Nghị mới tạm thôi không quở trách nữa (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 13). Vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đặt đại bản doanh tại cung Tây Long. Đạo quân do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy thì đóng dọc theo bãi cát hai bên bờ sông Nhị, liên hệ với nhau bằng một chiếc cầu phao bắc tạm qua sông. Đạo quân do Sầm Nghi Đống chỉ huy đóng tại Đống Đa (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Đạo quân do Ô Đại Kim cầm đầu đóng tại Sơn Tây. Và một đạo thủy quân nhỏ của Tôn Sĩ Nghị đóng tại Hải Dương. Các đạo thường xuyên liên lạc để sẵn sàng ứng cứu cho nhau khi có lệnh.
Bấy giờ là những ngày cuối năm, Tôn Sĩ Nghị thả lỏng cho quân sĩ mặc sức đi cướp bóc, “tìm cách vu hãm người lương thiện, áp bức nhà giàu có, thậm chí là giữa đường giữa chợ cũng hãm hiếp đàn bà, cướp bóc của cải, không còn biết kiêng sợ gì cả” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 13). Người đương thời đã phải đau khổ mà than rằng: “Nước Nam ta từ thuở có Đế Vương đến nay, chưa từng thấy ông vua nào luồn cúi đê hèn như thế cả” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 13).
Nếu đối với Tôn Sĩ Nghị nói riêng và quân Mãn Thanh nói chung, Lê Chiêu Thống tỏ ra “đê hèn” và “luồn cúi” bao nhiêu, thì ngược lại, đối với người trong nước, Lê Chiêu Thống lại tỏ ra hống hách và tàn ác bấy nhiêu. Mượn thế quân xâm lược, Lê Chiêu Thống tìm đủ mọi cách để tác oai tác quái, oán dẫu chỉ như là tơ tóc cũng quyết trả cho bằng được mới thôi. Hành vi đó đã khiến cho xã hội Bắc Hà vốn dĩ đã bị phân hóa lại càng bị phân hóa sâu sắc hơn.
- Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung và đích thân cầm quân ra Bắc
Tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 (ngày 21/12/1788), Nguyễn Huệ nhập được tin cấp báo của Ngô Văn Sở do Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chuyển đạt về. Tình thế mới buộc Nguyễn Huệ cần phải có những quyết định mới, sắc bén, kiên quyết và phù hợp. Tiêu diệt quân Mãn Thanh và trừng trị tập đoàn Lê Chiêu Thống là quyết tâm tự nhiên và tất nhiên, vì đó là cách duy nhất để bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước, cũng là cách duy nhất để bảo vệ thành tựu của phong trào Tây Sơn. Nhưng đánh quân Mãn Thanh, đánh một đội quân xâm lăng hùng hậu đang giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là phù Lê diệt Tây Sơn, thì trước hết, Nguyễn Huệ phải tạo ra được một ngọn cờ chính trị khác, vừa đủ sức để tập hợp sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân, lại vừa đủ sức để loại Lê Chiêu Thống ra khỏi vũ đài chính trị. Xuất phát từ sự phân tích rất chính xác đó, ngay ngày hôm sau, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (ngày 22/12/1788), tại Núi Bân (thuộc Phú Xuân), Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Trong tờ chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ nói rất rõ:
“Trẫm đã hai lần gây dựng cho họ Lê, thế mà Tự Quân nhà Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước bôn tẩu ở ngoài, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm” (Quang Trung tức vị chiếu).
Ai lên ngôi để được hưởng cuộc sống nhung lụa của Đế Vương, còn Nguyễn Huệ thì khác hẳn. Với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ đã dũng cảm dám nhận trước lịch sử sứ mệnh cực kỳ cao cả và vinh quang, đồng thời cũng vô cùng nguy hiểm, đó là lãnh đạo nhân dân quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Cũng với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ là người tuyên bố sự cáo chung của triều Lê và khẳng định mình là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều khiển vận mệnh của quốc gia và dân tộc.
Ngay sau khi làm lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã chỉ huy đại quân tiến thẳng ra Bắc. Theo ghi chép của các thư tịch cổ, ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (ngày 26/12/1788), nghĩa là đúng 4 ngày kể từ khi rời khỏi Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã có mặt tại Nghệ An. Đó thực sự là một cuộc hành quân thần tốc rất hiếm thấy trong lịch sử. Đến Nghệ An, Nguyễn Huệ dừng lại 10 ngày để tuyển mộ thêm quân lính. Cũng tại Nghệ An, Nguyễn Huệ đã tổ chức một cuộc duyệt binh lớn, nhằm kiểm tra và biểu dương sức mạnh của quân đội trước khi bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với quân xâm lược Mãn Thanh. Trong cuộc duyệt binh này, Nguyễn Huệ đã dõng dạc tuyên bố:
“Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện đang ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, tất cả đều đã được phân biệt rõ ràng, Bắc Nam hai phương chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã bao phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải khắp đất nước ta, cho nên, người mình không ai chịu nổi, đều muốn đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ… Các ngài không nỡ ngồi yên nhìn chúng làm điều tàn bạo, cho nên đã thuận theo lòng người mà dấy nghĩa binh, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về hẳn bên phương Bắc.
… Lợi hại và được thua đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta mà đặt thành quận huyện của chúng, không biết trông gương các đời Tống, Nguyên và Minh thuở xưa, vì thế ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng”
\”Chúa công ra chuyến này chẳng qua 10 ngày là giặc Thanh sẽ tan\” – Lời đáp Vua Quang Trung của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
(Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14).
Để kích thích thêm tính chủ quan vốn có của Tôn Sĩ Nghị, từ Nghệ An, Nguyễn Huệ “sai người ruổi ngựa chạy gấp ra, đưa thư xin đầu hàng Tôn Sĩ Nghị, lời lẽ trong thư rất nhũn nhặn, khiêm tốn” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 40).
Sau lễ duyệt binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ cho quân tiến gấp ra Thanh Hóa. Đến Thọ Hạc (nay thuộc thị xã Thanh Hóa), Nguyễn Huệ lại long trọng tổ chức lễ thệ sư (Lễ tế cờ và thề trước lúc xuất quân). Tại đại lễ thệ sư này, Nguyễn Huệ tuyên bố:
“Bớ chư quân! Phàm ai bằng lòng chiến đấu thì hãy vì ta giết sạch quân giặc. Nếu ai không muốn thì hãy xem ta giết vài vạn tên trong một trận, đó không phải là chuyện hiếm lạ đâu” (Nguyễn Thu. Lê quý kỷ sự).
Cũng trong đại lễ thệ sư ở Thọ Hạc, Nguyễn Huệ đã trịnh trọng đọc lời đanh thép của mình trước tướng sĩ và ba quân:
“Đánh cho để dài tóc, Đánh cho để đen răng. Đánh cho chúng chích luân bất phản, Đánh cho chúng phiến giáp bật hoàn, Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” |
Sách xưa mô tả rằng: “(Nguyễn) Huệ vừa dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung động cả hang núi, trời đất như muốn đổi màu. Thế rồi chiêng trống khua vang, quân sĩ tiến gấp ra Bắc” (Nguyễn Thu. Lê quý kỷ sự).
Ngày 20 tháng chạp năm Mâu Thân (Nhằm ngày 15/1/1789), Nguyễn Huệ đến Tam Điệp và Biện Sơn. Tại Tam Điệp và Biện Sơn, Nguyễn Huệ đã có 4 quyết định rất quan trọng.
- Một là, tuyên bố với các tướng lĩnh và văn thần rằng, chủ trương của Bộ chỉ huy Tây Sơn ở Bắc Hà trước đó về việc tạm lui quân về Tam Điệp và Biện Sơn là hoàn toàn đúng đắn. Lời tuyên bố này có ý nghĩa rất lớn, bởi qua đó, Nguyễn Huệ đã củng cố thêm sự nhất trí ngày càng cao trong nội bộ của mình.
- Hai là, truyền hịch đi khắp các địa phương, kể tội Tôn Sĩ Nghị, lên án quân xâm lược Mãn Thanh, nhằm kích thích lòng yêu nước và chí căm thù giặc của nhân dân.
- Ba là, tổ chức khao quân, đồng thời tuyên bố rằng: “Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến mồng 7 tháng giêng vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng như vậy không” (Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30).
- Bốn là, chia quân làm 5 đạo, đồng thời tấn công vào giặc từ 5 mũi khác nhau:
– Đạo thứ nhất là đạo chủ lực, do Nguyễn Huệ trực tiếp thống lĩnh, gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, được trang bị đầy đủ nhất. Cùng tham gia chỉ huy đạo quân này với Nguyễn Huệ còn có Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân, Hám Hổ hầu (tức Chiêu Viễn Tướng quân). Đạo quân này đánh thẳng vào phía Nam kinh thành Thăng Long, nơi tập trung lực lượng chủ lực của quân Thanh đông đảo nhất.
– Đạo quân thứ hai cũng gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, do Đô đốc Đặng Tiến Đông (Tác giả NKT chưa có điều kiện để nghiên cứu riêng về nhân vật Đặng Tiến Đông nên tư liệu về vị tướng này, tác giả tham khảo và sử dụng công trình của GS Phan Huy Lê) chỉ huy. Đạo này có nhiệm vụ đánh vào khu vực đóng quân của Sầm Nghi Đống ở Đống Đa, sau đó tràn vào Thăng Long, đánh vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.
– Đạo quân thứ ba do Đô đốc Bảo chỉ huy, gồm kỵ binh và tượng binh. Đội tượng binh trong đạo quân này rất mạnh, khả năng cơ động rất cao. Đạo này có nhiệm vụ đánh vào phía Tây Nam của đồn Ngọc Hồi (nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Nội). Với nhiệm vụ này, đạo quân thứ ba chính là lực lượng kết hợp quan trọng nhất đối với đạo chủ lực do Nguyễn Huệ chỉ hủy trong trận tấn công vào Ngọc Hồi.
– Đạo quân thứ tư gồm chủ yếu là lực lượng thủy binh do Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, có nhiệm vụ vượt biển, tiến vào Hải Dương để tiêu diệt thủy binh của giặc tại đây, sau đó, tiến vào Thăng Long, tấn công dinh trại của quân Mãn Thanh dọc hai bên bờ Sông Nhị.
– Đạo quân thứ năm cũng gồm chủ yếu là lực lượng thủy binh, do Đô đốc Lộc chỉ huy, vượt biển để tiến ra khu vực sông Lực Đầu. Nếu chiến trận xảy ra ở Thăng Long mà gay go thì đây chính là đạo quân bất ngờ đánh từ phía sau đánh lại. Nếu quân Mãn Thanh ở Thăng Long mà nhanh chóng thất bại thì đây chính là đạo quân có nhiệm vụ đánh chặn đường rút lui của kẻ thù.
Nhìn tổng quát, kế hoạch của Nguyễn Huệ là kế hoạch tấn công vũ bão, dồn đối phương vào thế bị bao vây và bị tiêu diệt không cách gì chống đỡ nổi. Khác với trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm-Xoài Mút diễn ra vào năm 1785, trong trận quyết chiến chiến lược này, lực lượng chủ yếu của Tây Sơn không phải là thủy binh mà là bộ binh và tượng binh.
- Trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi – Đống Đa, Tết Kỷ Dậu (1789)
Đêm 30 Tết, đại quân của Nguyễn Huệ bắt đầu vượt Gián Khẩu (nơi hợp lưu của sông Sinh Quyết và Đồng Minh trước khi đổ xuống Ngã Ba Non Nước (Ninh Bình).) và bất ngờ tấn công vào dinh trại của quân Lê Chiêu Thống ở vòng ngoài. Bấy giờ, quân bản bộ của Lê Chiêu Thống gần như đã bị buộc phải canh giữ từ xa để quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị có thể yên tâm nghỉ ngơi và ăn tết. Vừa giáp chiến, quân của Lê Chiêu Thống đã đại bại và bỏ chạy thục mạng. Nguyễn Huệ ra lệnh cho tướng sĩ của mình truy kích đến cùng, quyết không để một tên nào thoát được.
Từ xa, vừa thoáng thấy quân Tây Sơn, những tên lính do thám của Tôn Sĩ Nghị cũng đã vội vã tháo chạy. Nhưng, tất cả bọn chúng đã không sao thoát khỏi cuộc truy nã thần tốc của quân đội Tây Sơn. Khi Nguyễn Huệ tiến đến tận Phú Xuyên, tức là chỉ còn cách Thăng Long hơn ba chục cây số, Tôn Sĩ Nghị và tướng sĩ dưới quyền vẫn chưa hề hay biết gì. Nguyễn Huệ quyết định phải triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ này để tổ chức những trận đánh đầu tiên vào các đồn lũy quan trọng nhất của quân Mãn Thanh.
Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (ngày 28/1/1789), Nguyễn Huệ cho quân bí mật bao vây đồn Hạ Hồi (nay thuộc xã Hồng Phong, huyện Thường Tín, Hà Nội). Đây là đồn nằm chắn ngang đường thiên lý từ Phía Nam ra Thăng Long. Phá được đồn Hạ Hồi có nghĩa là phá được vị trí tiền tiêu quan trọng nhất, đồng thời phá được cánh cửa bảo vệ mặt Nam của Thăng Long. Sau khi đã bí mật bao vây xong đồn Hạ Hồi, Nguyễn Huệ cho bắc loa gọi hàng. Tiếng loa vừa dứt, quân sĩ của Nguyễn Huệ liền đồng thanh cất tiếng dạ nhiều lần, chợt nghe cứ tưởng là có đến hàng vạn người đã khép kín vòng vây dày đặc ở bốn bên. Quân Thanh trong đồn Hạ Hồi rụng rời hồn vía, lập tức kéo nhau ra xin hàng (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14). Đồn Hạ Hồi bị tiêu diệt vừa rất nhanh, vừa rất gọn. Nguyễn Huệ thu được không biết bao nhiêu là lương thực, thực phẩm, vũ khí và các chiến lợi phẩm khác. Sau thắng lợi của trận Hạ Hồi, Nguyễn Huệ đóng quân tại cánh đồng Cung (cũng thuộc xã Hồng Phong, huyện Thường Tín, Hà Nội) và tại đây, một kế hoạch tấn công vào Ngọc Hồi đã nhanh chóng được xây dựng.
Tuy cùng án ngữ đường thiên lý dẫn vào Thăng Long, song, Ngọc Hồi có vị trí quan trọng hơn hẳn Hạ Hồi. Đồn Ngọc Hồi (nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội) chỉ cách Thăng Long hơn 10 cây số. Tại đây, lực lượng quân Mãn Thanh rất đông, vũ khí rất đầy đủ và lương thực cũng rất dồi dào. Chỉ huy quân Thanh ở Ngọc Hồi là Đề đốc Hứa Thế Hanh – Phó tướng của đạo quân thứ ba do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp cầm đầu. Và điều quan trọng hơn nữa là quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi đã biết đồn Hạ Hồi thất thủ, nên yếu tố bất ngờ tấn công của Tây Sơn đến đây không còn nữa. Cũng khác với Hạ Hồi, đồn Ngọc Hồi rất kiên cố. Nhìn tổng thể, đồn Ngọc Hồi gồm có 3 lớp khác nhau. Ngoài cùng là bãi chướng ngại vật, gồm cạm bẫy, chông sắt và cả địa lôi (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 41 và Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30). Đó là chưa kể ao Thọ Am ở phía Đông Nam cũng có giá trị như một bãi chướng ngại tự nhiên rất lợi hại. Nếu tính từ ngoài vào, sau bãi chướng ngại vật là chiến lũy và trong chiến lũy là dinh trại của quân Thanh.
Theo ghi chép của một số thư tịch cổ, chúng ta có thể ước đoán tổng số quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi vào khoảng vài ba vạn tên (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14; Lê Trọng Hàm. Minh đô sử, quyển 44). Cùng tham gia chỉ huy quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi, dưới trướng của Đề đốc Hứa Thế Hanh còn có một loạt các tướng lĩnh cao cấp khác. Đó là:
- Tổng binh Thượng Duy Thăng.
- Tổng binh Khánh Thành.
- Tổng binh Trương Triều Long.
- Tổng binh Lý Hóa Long.
Bản thân việc tập trung quân số và tướng lĩnh cao cấp này cũng đã đủ để khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của Ngọc Hồi. Đó là chưa nói rằng, ngay sau khi nhận được tin đồn Hạ Hồi thất thủ, Tôn Sĩ Nghị còn điều động thêm một loạt quân sĩ, do Tổng binh Thang Hùng Nghiệp cầm đầu, đến để tăng cường cho Ngọc Hồi. Tóm lại, Ngọc Hồi có giá trị như một cánh cửa sắt che chở cho Tôn Sĩ Nghị, như một quyết chiến điểm chiến lược của quân Mãn Thanh.
Về phần mình, Nguyễn Huệ đã cho đại binh áp sát đồn Ngọc Hồi, nhưng chưa đánh ngay. Nếu Nguyễn Huệ bình tĩnh bao nhiêu thì quân Thanh lại luôn ở trong tình trạng căng thẳng bấy nhiêu. Ngay trong đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu, quân Thanh đã liên tục bị báo động. Chúng mệt mỏi chờ đợi suốt một phần của đêm mồng 3, nguyên ngày mồng 4 và cả đêm mồng 4 Tết Kỷ Dậu (ngày 29/1/1789). Mãi đến sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, cuộc tấn công của Nguyễn Huệ vào đồn Ngọc Hồi mới bắt đầu. Tham gia trận đánh này lực lượng của Tây Sơn gồm có:
– Toàn bộ đạo quân do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu.
– Toàn bộ đạo quân do Đô đốc Bảo chỉ huy.
Truyền thuyết dân gian vùng Thường Tín (Hà Nội) kể rằng, khuya mồng 4 Tết, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho quân sĩ phải ăn thật no, ăn xong thì bỏ hết dụng cụ nấu nướng và lương thực lại, hẹn đến trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu (ngày 30/1/1789) thì vào ăn trong đồn Ngọc Hồi. Khi xuất trận, toàn quân Tây Sơn giương cờ đỏ, quân sĩ thắt khăn đỏ, còn Nguyễn Huệ thì thắt khăn vàng.
Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị vừa nghe tin Hạ Hồi thất thủ, chưa kịp nghĩ cách ứng phó gì đã nghe tin cấp báo của Ngọc Hồi. Sử cũ mô tả rằng, quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị thì thán phục mà nói với nhau: “Tướng (Tây Sơn) như trên trời rơi xuống, quân (Tây Sơn) như dưới đất chui lên”, còn bản thân Tôn Sĩ Nghị thì rút kiếm chém xuống đất và nói: “Thần tốc, thật là thần tốc!” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14). Ngay sau đó, Tôn Sĩ Nghị điều ngay một đội kỵ binh thân cận của mình đến và giao nhiệm vụ thông tin thường xuyên giữa Ngọc Hồi với đại bản doanh.
Cuộc tấn công vào Ngọc Hồi của quân đội Tây Sơn được mở đầu bằng cuộc xuất trận của hơn 100 voi chiến. Nguyễn Huệ là người có đầu óc cải tiến rất táo bạo. Lần đầu tiên, đại bác được bố trí trên lưng voi, và do đó, voi chiến của Tây Sơn tung hoành chẳng khác gì xe tăng hiện đại. Ngoài ra, tượng binh của Tây Sơn còn được trang bị thêm cả hỏa hổ, súng tay và giáo mác, cung nỏ… Đề đốc Hứa Thế Hanh hạ lệnh cho đơn vị kỵ binh mạnh nhất của giặc ở Ngọc Hồi ra nghênh chiến. Nhưng, vừa thoáng thấy voi chiến, ngựa của đối phương đã “hốt hoảng hí lên rồi chạy lồng trở lại, giẫm đạp lên nhau” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 41). Giặc chui vào đồn, nã đại bác vào quân Tây Sơn rất dữ dội nhưng vẫn không sao lung lay nổi thế trận của Tây Sơn. Đợt tấn công thứ nhất tạm kết thúc với thất bại bước đầu thuộc về quân Thanh.
Cũng ngay trong buổi sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ tổ chức đợt tấn công thứ hai vào Ngọc Hồi. Đợt này cũng được mở đầu bằng cuộc xông trận của voi chiến, nhưng khác với đợt thứ nhất, ở đợt thứ hai này voi chiến đóng vai trò mở đường cho quân cảm tử tràn lên. Theo mô tả của sử cũ (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14) thì cứ mỗi tốp có 30 người: 10 người giắt đoản đao bên hông, cùng nhau khiêng 1 tấm bảng lớn, phía ngoài có cuốn rơm tẩm bùn để chặn mũi tên của giặc; 20 người còn lại thì núp phía sau tấm ván che nói trên rồi nhất loạt cùng tiến. Số quân cảm tử của Nguyễn Huệ tham gia tấn công Ngọc Hồi đợt thứ hai này gồm chừng 600 người (20 tốp). Đáp lại, quân Thanh liên tục nã đại bác và phun hỏa mù ra, khiến cho “khói lửa mù trời, gần nhau trong gang tấc mà cũng thẳng thấy gì cả” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14). Tiến ngay sau voi chiến và quân cảm tử, đại binh của Tây Sơn cũng rầm rộ tràn vào. Những bó rơm lớn được dùng làm tấm đỡ, kẻ trước người sau đều liều chết mà đánh (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 41). Lũy Ngọc Hồi bị phá và Nguyễn Huệ dẫn đại binh đánh thẳng vào dinh trại giặc. Đồn Ngọc Hồi tan tành. Giặc chết chồng chất lên nhau (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14)). Tổng chỉ huy quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi là Hứa Thế Hanh cùng với Tổng binh Thượng Duy Thăng bị giết tại trận.
Quân sĩ Mãn Thanh sống sót ở đồn Ngọc Hồi chạy thục mạng về Thăng Long. Nhưng vừa đến Yên Duyên (nay thuộc thôn Sở Hạ, xã Ninh Sở, huyện Thơờng Tín, Hà Nội) thì lập tức bị một đạo quân Tây Sơn đã được Nguyễn Huệ bố trí mai phục sẵn, đánh cho một trận tơi bời, lại bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Số sống sót lại liều chết tìm đường chạy nhanh về Thăng Long. Nhưng, đến Đầm Mực (nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) thì gặp quân mai phục do Đô đốc Bảo bố trí sẵn. Và một trận đánh đã diễn ra tại đây. Toàn bộ quân giặc chạy đến vùng Đầm Mực đều bị giết hoặc bị bắt sống. Như vậy là chỉ với một buổi sáng, quân Tây Sơn đã đập tan đồn Ngọc Hồi, mở tung cánh cửa sắt che chở mặt Nam kinh thành Thăng Long để rồi nhanh chóng tiến thẳng vào sào huyệt của giặc. Đây là trận phối hợp tuyệt vời giữa hai binh chủng chính là bộ binh và tượng binh, đây cũng là trận kết hợp chặt chẽ giữa tấn công trực diện với bí mật bao vây và tiêu diệt. Đè bẹp được lực lượng quân Mãn Thanh ở Ngọc Hồi cũng có nghĩa là Tây Sơn bắt đầu nắm được phần đại thắng ở trong tay.
Đồng thời với cuộc tấn công vào Ngọc Hồi, đạo quân Tây Sơn do Đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy cũng đánh mạnh vào Đống Đa. Cầm đầu quân Mãn Thanh ở Đống Đa là Sầm Nghi Đống. So với những tướng lĩnh cao cấp dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị thì Sầm Nghi Đống kém cỏi hơn cả. Quân do tướng Sầm Nghi Đống quản lĩnh cũng chủ yếu là quân ô hợp. Nhưng do đóng giữ ở một vị trí thuận lợi, lại ở ngay cửa dẫn vào Thăng Long (Đó là cửa ô Thịnh Quang, tức là cửa ô Thịnh Hào, nay là Ô Chợ Dừa thuộc quận Đống Đa, Hà Nội), Sầm Nghi Đống có không ít lợi thế. Tổ chức tấn công vào Đống Đa không đơn giản một chút nào cả. Tương tự như ở Ngọc Hồi, quân Tây Sơn đánh vào Đống Đa do Đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy gồm chủ yếu là bộ binh và tượng binh. Quân số Tây Sơn tuy không đông nhưng rất tinh nhuệ và linh hoạt. Vào khoảng cuối canh tư (Khoảng gần 3 giờ sáng) của đêm mồng 5 Tết Kỷ Dậu (ngày 30/1/1789), cuộc tấn công vào Đống Đa bắt đầu. Chỉ trong chốc lát, hàng ngàn quân Thanh đã bị giết, Sầm Nghi Đống hốt hoảng chui vào đồn cố thủ để chờ viện binh. Đúng lúc đó, nhân dân các địa phương ở chung quanh đã lấy rơm rạ bện thành con cúi (Người xưa thường dùng rơm bện lại thành từng lọn dài ngắn khác nhau để dùng vào việc xin lửa khi nhà chẳng may không còn lửa. Những lọn rơm hoặc rạ như thế, gọi là con cúi), châm lửa vào, cầm lên rồi vừa đi vừa múa. Khi ấy, sương mù còn dày đặc, xa trông, những con cúi đã châm lửa ấy chẳng khác gì rồng lửa, vì thế, gọi là hỏa long trận. Tuyệt vọng vì biết không thể nào chống đỡ nổi, Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự tử. Hàng trăm thuộc hạ trung thành cửa Sầm Nghi Đống cũng tự sát theo chủ (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 47, tờ 41). Đống Đa bị hạ, đường Tây Sơn tiến thẳng vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị đã thênh thang.
Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị liên tiếp nhận được tin bại trận từ khắp nơi truyền về, chưa kịp nghĩ cách ứng phó thì đã thấy bốn bề lấp loáng hỏa long trận và những đơn vị đầu tiên của quân Tây Sơn dũng mãnh xông vào. “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ binh của mình bỏ trốn trước, qua cầu phao, nhằm thẳng hướng bắc mà chạy thục mạng” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14) đó là hình ảnh thảm hại của Tôn Sĩ Nghị sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789). Quân Mãn Thanh thấy chủ tướng chạy thì cũng tranh nhau tìm đường chạy theo. “Chúng tranh nhau qua cầu để sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết không biết bao nhiêu mà kể” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14). Sợ quân Tây Sơn cũng sẽ dùng cầu phao mà vượt sông truy đuổi, Tôn Sĩ Nghị đã hạ lệnh chặt đứt cầu phao. Hành động tàn ác đó đã khiến cho hàng vạn quân lính của Tôn Sĩ Nghị bị chết đuối, “nước sông Nhị vì thế mà tắc nghẽn, không chảy được” (Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14). Số quân Thanh còn kẹt lại ở bờ Nam thì đi cướp giật thuyền của dân mà sang bờ Bắc, nhưng quân đông mà thuyền ít, chúng tranh giành nhau, chém giết nhau, khiến thuyền chìm, người chết. Và đúng lúc chúng đang hoảng sợ đến tột độ thì quân Tây Sơn ập tới. Tất cả đều bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Đó thực sự là một ngày thảm hại. Về sau, ngày thảm hại này được Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái khái quát bằng 4 câu thơ Nôm (phiên âm) như sau:
\”Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc Kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều (cầu phao) chặt đứt, quân mình thác oan \”
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Khi đã qua được sông Hồng, chúng cứ ngỡ là có thể yên tâm chạy một mạch về Trung Quốc, chẳng dè, chưa kịp hoàn hồn thì đã bị quân Tây Sơn do Đô đốc Lộc chỉ huy, xông tới đánh cho mấy trận kinh hoàng nữa. Rất tiếc cho Tây Sơn và cũng rất may cho tàn quân của Tôn Sĩ Nghị, ấy là do gặp bão, đạo quân do Đô đốc Lộc chỉ huy đến có phần chậm hơn so với kế hoạch đã định vì thế, không kịp bố trí để có thể bịt kín mọi ngả tháo chạy của quân Thanh. Theo nhận định của một giáo sĩ phương Tây thì số quân Thanh chạy thoát và về được Trung Quốc chỉ độ ba bốn chục tên mà thôi (De la Bissachère. État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Lao et Lạc Thổ.-Paris, 1812.-T. 2, P.170).
Đạo thủy binh nhỏ của Mãn Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị tiêu diệt gọn. Đáng được coi là may mắn hơn cả có lẽ là đạo quân Mãn Thanh do Ô Đại Kinh cầm đầu. Hắn tiến rất chậm, do đó, khi mới đến Sơn Tây, chưa kịp ổn định nơi đóng quân thì đã nghe tin Tôn Sĩ Nghị đại bại. Từ Sơn Tây, Ô Đại Kinh lập tức cho quân chạy về phương Bắc. Nhưng, đạo quân này cũng bị các đội dân binh ở Tuyên Quang đánh cho tơi bời, khiến đội ngũ bị rối loạn, thất lạc và không liên hệ được với nhau.
Ý chí xâm lăng của nhà Mãn Thanh đối với nước ta trao gởi ở 29 vạn quân do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu đã bị đè bẹp hoàn toàn. Ngọc Hồi – Đống Đa đi vào lịch sử dân tộc với ý nghĩa là tên gọi hào hùng của võ công chống xâm lăng oanh liệt vào hàng bậc nhất. Sau Ngọc Hồi – Đống Đa, Lê Chiêu Thống buộc phải sống lưu vong đầy tủi nhục trên đất Trung Quốc để rồi mất ở đó vào tháng 10 năm 1793, khi vừa mới 28 tuổi. Cũng sau Ngọc Hồi – Đống Đa, nhà Thanh buộc phải thừa nhận ngôi vị và chính quyền của Quang Trung Nguyễn Huệ.
10. Quang Trung – vị Hoàng Đế của những cải cách tích cực và táo bạo
Khi quân Mãn Thanh và bè lũ Lê Chiêu Thống đã bị quét sạch khỏi bờ cõi, cơ đồ mà Quang Trung Nguyễn Huệ tiếp nhận được chỉ là sự điêu tàn và đổ nát. Với cương vị là Hoàng Đế, Quang Trung đã ban hành một loạt những biện pháp nhằm nhanh chóng giải quyết những khó khăn chồng chất của đất nước đương thời.
Trước hết, Quang Trung tìm cách thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với nhà Thanh, tránh họa binh đao lâu dài cho nhân dân hai nước. Việc này, Quang Trung đã chuẩn bị ngay từ khi mới đến Tam Điệp và Biện Sơn. Sử cũ chép:
“Lần này ta đích thân cầm quân, kế sách tiến đánh đều đã có sẵn, chẳng qua chỉ độ 10 ngày là đánh đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng là nước lớn gấp 10 nước mình, sau khi bại trận thì ắt lấy làm xấu hổ nên lo đánh báo thù, thế thì việc binh đao sẽ chẳng biết bao giờ dứt, ta thật không nỡ vì như thế là không may cho dân. Vậy, khi ấy chỉ có người khéo nói mới mong dập tắt được binh đao. Ta thấy việc này, ngoài Ngô Thì Nhậm ra, chẳng ai làm được (Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14).).
Quả y như rằng, sau chiến thắng, Ngô Thì Nhậm và em rể ông là Phan Huy Ích được Quang Trung giao trách nhiệm chỉ huy những hoạt động nhằm thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với nhà Mãn Thanh. Chủ trương của Hoàng Đế Quang Trung là phải thật mềm mỏng, nhưng cũng phải thật kiên quyết. Mềm mỏng là mềm mỏng trong sách lược, trong từng bước đi cụ thể, còn kiên quyết là kiên quyết trong mục tiêu bảo vệ đến cùng nền độc lập và chủ quyền mà cả dân tộc ta phải đổi không biết bao nhiêu xương máu mới giành lại được. Và Quang Trung đã thành công (Đã có người nhầm lẫn rằng Quang Trung phải sang chầu vua Càn Long. Thực ra, người sang chầu Càn Long chỉ là giả vương (người đóng giả Quang Trung), tên là Phạm Quang Trị. Điều này, chính Mãn Thanh cũng biết, nhưng rồi cũng phải… “ngậm bồ hòn làm ngọt”).
Đối với bọn phản loạn ngoan cố, Quang Trưng thẳng tay trừng trị. Bấy giờ, lực lượng phản loạn đáng kể hơn cả vẫn là lực lượng do Lê Duy Chỉ (em ruột Lê Chiêu Thống) cầm đầu. Năm 1790, Lê Duy Chỉ đã tạo ra được một mối liên minh nguy hiểm, gồm có Lê Duy Chỉ ở Cao Bằng, quân Xiêm và quân Lào ở mặt Tây, quân Nguyễn Ánh ở mặt Nam. Năm 1791, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu chỉ huy đã tràn sang Lào, đánh tan và truy đuổi quân Xiêm đến biên giới Xiêm La.
Khi ấy, vùng đất do Quang Trung quản lý gồm từ Bến Ván (Quảng Nam) trở ra cho đến hết miền Bắc. Trên dải đất đó, lúc đầu Quang Trung đóng đô tại Phú Xuân (Huế ngày nay), nhưng về sau, Quang Trung đã chọn đất định đô mới cho triều đại của mình tại Nghệ An. Đó là Phượng Hoàng Trung Đô. Rất tiếc là Phượng Hoàng Trung Đô đang kiến thiết dở dang thì Quang Trung qua đời.
Trong khoảng từ năm 1789-1792, Quang Trung đã ban hành nhiều chính sách lớn, tạo ra được những ảnh hưởng rất tốt đẹp. Ngay đầu năm 1789, Quang Trung đã ban hành Chiếu Khuyến nông với những nội dung rất cụ thể như: kêu gọi nhân dân tích cực sản xuất, không được bỏ ruộng hoang, người đi phiêu tán phải trở về quê cũ… Quang Trung trọng nông (coi trọng sản xuất nông nghiệp), nhưng không ức thương (ức chế sự phát triển của thương mại). Đó là điểm độc đáo trong chính sách kinh tế của Quang Trung. Và cũng dưới thời Quang Trung, các ngành kinh tế thủ công nghiệp đều có cơ hội để phát triển.
Trong văn hóa, Quang Trung đặc biệt coi trọng việc học. Đầu năm 1789, với Chiếu Lập học, Quang Trung đã thể hiện khá rõ hoài bão lớn của mình về việc mở mang nền giáo dục. Đặc biệt, Quang Trung rất đề cao chữ Nôm, muốn biến chữ Nôm thành chữ viết chính thức của nước nhà. Chính Quang Trung đã quyết định thành lập Viện Sùng Chính (cơ quan chuyên trách về giáo dục của triều đình, đồng thời cũng là cơ quan chuyên lo phiên dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm.)
Tuy bận rộn với ngổn ngang công việc, nhưng Quang Trung vẫn không quên lưu tâm đến hoạt động của các tôn giáo, đến sự có mặt của các giáo sĩ phương Tây ở nước ta.