5 giờ trước
Giáo sư Shawn McHale, gửi cho BBC News Tiếng Việt
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được 5 nước ký kết, trong đó có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp. Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, còn được gọi là Kháng chiến chống Pháp, kết thúc.
Việt Nam tạm thời bị chia thành hai phần, với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) do phe cộng sản lãnh đạo ở phía bắc và Quốc gia Việt Nam không cộng sản ở phía nam. Ngay sau khi được tin này, Trần Bạch Đằng, một trí thức cộng sản, đảng viên kháng chiến ngầm ở lại miền Nam, đã lên đường vào Sài Gòn. Ông cảm thấy mất phương hướng. Ông viết ra những lời xúc động trong cuốn Kẻ sĩ Gia Định (NXB Quân Đội Nhân Dân, 2005), 19-20.:
“Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi bùi ngùi từ giã vùng giải phóng Khu 9, nơi mà tôi sống và làm việc nhiều năm, về Sài Gòn. Tôi bước chân lên chợ Phụng Hiệp vào một buổi sáng. Bên kia sông là vùng giải phóng. Phía tay mặt chợ là trụ sở Uỷ ban Liên hiệp, ngọn cờ Tổ quốc đang bay. Phụng Hiệp tuy nhỏ nhung rất náo nhiệt. Đối với tôi, cái gì ở đây cũng xa lạ cả. Cảnh bến xe càng ồn ào hơn, người lên xe, xuống xe, đi lại rầm rập. Từ bờ sông lên, tôi phải qua mặt nhiều ngưởi và khi qua mặt họ tôi có cảm giác lạnh lạnh ở gáy, như là bị những con mắt tò mò nhìn xỉa xói. Trèo lên xe, tôi liếc người kế bên. Đó là một thanh niên, đeo kiếng đen “Tay nầy có vẻ một lính kính,” tôi nghĩ bụng. Đằng sau tôi là những ai? Tôi mấy lần định quay lại nhìn, nhưng tôi thôi . . . . Những suy tính lung tung ấy làm tôi bứt rứt. Xe chạy vụt qua bao nhiêu xóm, chợ tôi không nhớ. Cảm giác chung là khi xe chạy qua hết những khúc lộ bị phá hoại, bắt đầu đến đoạn tốt, xe không xốc nữa, tôi thấy hình như mình xa Khu 9 hơn và thấy bơ vơ hơn.”
Việc Trần Bạch Đằng nhớ lại cuộc hành trình năm 1954 của ông từ vùng kháng chiến giải phóng đến vùng do Quốc gia Việt Nam kiểm soát, thể hiện tầm quan trọng của đường biên giới bên trong đã hình thành đồng bằng sông Cửu Long trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Nhưng nó cũng nhấn mạnh một thực tế cay đắng cho VNDCCH do phe cộng sản lãnh đạo: họ đã thất bại trong cuộc chiến ở miền Nam, và buộc phải chấp nhận sự chia cắt đất nước tạm thời tại Vĩ tuyến mười bảy. Chỉ có những nghĩa quân bí mật như Trần Bạch Đằng mới ở lại tiếp tục đấu tranh cách mạng.
Đối với các nhà sử học trong và ngoài Việt Nam, Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945–54) chiếm một vị trí đặc biệt. Ở cấp độ toàn cầu, đây là một phần mang tính biểu tượng của các cuộc đấu tranh giành độc lập ở châu Á và châu Phi, đánh dấu sự kết thúc của mô hình đế quốc châu Âu. Trong số 400.000 binh lính và dân thường được cho đã thiệt mạng trong cuộc chiến này, có lẽ chỉ 5% là người Pháp. Những người chết đến từ châu Âu, châu Phi, châu Á và thậm chí cả châu Mỹ. Họ bao gồm người Việt Nam, người Lào, người Campuchia, người Guinea, người Senegal, Maroc, Algeria và người Đức. Nhưng phần lớn người chết đến từ Việt Nam.
Ở Việt Nam, cách kể tiêu chuẩn về cuộc chiến này là về một cuộc kháng chiến dân tộc cách mạng Việt Nam kiên quyết, ban đầu thất thế, có sự ủng hộ trên diện rộng, đã chiến đấu chống lại quân đội Pháp hùng mạnh, và cuối cùng đã chiến thắng bất chấp những khó khăn lớn. Câu chuyện luôn bắt đầu ở miền Bắc đất nước, khi Việt Minh cướp chính quyền trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Ảnh hưởng của hành động này lan dần về phía Nam đến tận Đồng bằng sông Cửu Long, và đỉnh điểm là trở lại miền Bắc, khi Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Các sử gia cộng sản (và nhiều người khác) thường nhấn mạnh rằng chiến tranh cũng nổ ra ở miền Bắc vào ngày 19 tháng 12 năm 1946, sau khi các cuộc đàm phán ngoại giao giữa VNDCCH và Pháp đổ vỡ. VNDCCH do phe cộng sản lãnh đạo đã chiến thắng khi Pháp bại trận trong trận Điện Biên Phủ năm 1954. Đây là một câu chuyện rất hướng về miền Bắc, mà hầu hết các sách giáo khoa về chiến tranh của Việt Nam ít chú ý đến những gì, chính xác, đã xảy ra ở miền Nam.
Các nhà sử học không phải là người Việt Nam cũng lại áp dụng cách tiếp cận lấy miền Bắc làm trung tâm này và thêm vào những mối bận tâm của riêng họ. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu của Pháp bị chi phối bởi nhu cầu giải thích tại sao Pháp “mất” Đông Dương. Họ có xu hướng bỏ qua trong im lặng những tội ác chiến tranh vốn là một phần không thể thiếu của cuộc xung đột này, và giảm thiểu sự đóng góp quan trọng vào nỗ lực chiến tranh của những người không phải là công dân Pháp. Các tác phẩm của Mỹ về cuộc xung đột, cũng tập trung vào miền Bắc, có đặc điểm riêng và có xu hướng đưa ra một cái nhìn biếm họa về Hồ Chí Minh. Do đó, Fredrik Logevall, trong sách , Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam, tuyên bố rằng vào năm 1954, VNDCCH, “dưới sự lãnh đạo của“ Bác Hồ ”đáng kính, đã chống lại người Nhật và đánh đuổi người Pháp và do đó đảm bảo tính chính danh theo chủ nghĩa dân tộc, mà về cơ bản, đã được cố định cho mọi thời đại. ” Đây là cách nói cường điệu, không phải lịch sử.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta tránh viết một lịch sử tập trung nhiều vào miền bắc, Đảng Cộng sản Việt Nam, hoặc chiến lược quân sự? Thay vào đó, điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta viết ra lịch sử nhạy cảm hơn về mặt văn hóa, tinh tế hơn về cuộc chiến, tập trung vào miền Nam, nơi cuộc chiến lần đầu tiên nổ ra? Và điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta tập trung vào cư dân bản địa của miền Nam hơn là người Pháp? Có lẽ những lời của một người trẻ tuổi Âu Trường Thanh, người đã viết cho một người bạn học ở Paris vào tháng 6 năm 1947, có thể gợi ý một hướng tiếp cận:
\”Kể từ khi bạn ra đi, chiến tranh đã để lại cho đất nước chúng tôi dấu vết của bất hạnh và đau thương. Một ngày luôn có đốt phá và chết chóc. Và tôi đảm bảo với bạn rằng những cảnh tượng như vậy sẽ mãi mãi khắc sâu vào tâm trí chúng tôi và không bao giờ có thể xóa bỏ được: hành động tàn bạo, hãm hiếp, nhà bị đốt cháy, đầu bị chặt, xác người chết đuối ven sông, rải rác dọc đường … Có một ví dụ: mỗi ngày, có hai đoàn rước gồm hai xe ngựa chở đầy xác chết đi xuống đường General Lizé về phía nghĩa trang Chí Hòa. Hai người lái xe, mặc quần áo kiểu Trung Quốc, mũ rộng vành, đeo kính râm, quất ngựa. Một trong số họ, tôi không rõ tại sao, kêu chũm chọe thành từng đợt đột ngột. Trên toa xe chất đống hàng chục xác chết, một số còn nguyên vẹn, một số khác bị cắt xẻo khủng khiếp, không có quan tài hay chiếu để che phủ. Và thế là, mỗi ngày, một cuộc rước hai xe ngựa vào buổi sáng, và hai chuyến nữa vào buổi tối. Hai năm chiến tranh không mang lại gì ngoài sự tàn phá và đổ máu.\”
Như trích dẫn này cho thấy, mức độ bạo lực từ năm 1945 đến năm 1947 – và thực sự là đến năm 1954 – đã định hình nên cuộc chiến. Trong cuốn sách tôi viết và vừa ra mắt, Chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất: Bạo lực, Chủ quyền và Sự tan vỡ của miền Nam, 1945-56 (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2021), tôi đã xem xét động lực của bạo lực, kết hợp với sự sụp đổ thể chế và sau đó là tái thiết, đã định hình sâu sắc cuộc chiến.
Nhà nước thuộc địa của Pháp ở Việt Nam đã bị suy yếu về thể chế từ từ trong Thế chiến thứ hai. Sau đó, vào tháng 3 năm 1945, chế độ tan rã ở các tỉnh. Vương Hồng Sển, khi đó đang sống tại Sóc Trăng, tuyên bố rằng “Quyền lực điều hành trong tỉnh như mất đầu” (trích từ Hơn nửa đời hư, chương 19). Nhiều tỉnh thành khác cũng vậy. Nhà nước Nhật Bản thay thế chế độ này, cũng lại sụp đổ vào tháng 8 năm 1945. Khoảng trống này đã tạo ra một loạt các thành phần đấu tranh giành quyền kiểm soát các làng và tỉnh địa phương của họ. Các động lực bạo lực tiếp theo trong những năm đầu của cuộc chiến, do người Pháp, người Việt và người Khmer xúi giục, từ cấp địa phương cho đến cấp quốc gia, sau đó làm sâu sắc thêm sự đối kháng lẫn nhau và đẩy các đồng minh tiềm năng ra xa nhau. Cuối cùng, người Pháp thống trị các thành phố ở miền Nam, nhưng nông thôn là nơi diễn ra xung đột gay gắt giữa người Việt với nhau (và với người Khmer).
Chúng ta có thể coi quá trình này là “gom lửa”, sau đó vỡ ra, tạo thành cái mà tôi gọi là “đứt gãy đôi”. Sự gãy nứt đầu tiên xảy ra ở những người Việt Nam. Vào tháng 8 năm 1945, Việt Minh ở miền Nam dường như có một sự đoàn kết mong manh, với sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng để chống lại người Pháp. Các đơn vị quân đội Việt Nam, tuy hăng hái, vẫn vô tổ chức, trang bị kém và được huấn luyện tồi. Một quân đội Pháp yếu kém một cách đáng ngạc nhiên đã cố gắng khuất phục những lực lượng thô sơ này, nhưng thành công rất hạn chế.
Đối mặt với sự vô tổ chức của các lực lượng Việt Nam, những người cộng sản đứng đầu Việt Minh đã cố gắng áp đặt ý chí của họ lên các nhóm tự trị (như Cao Đài và Hòa Hảo, các dân quân khác nhau và các đảng phái chính trị đối địch). Họ gây áp lực cho kẻ ngoan cố, bao gồm cả việc sử dụng biện pháp bắt cóc và bỏ tù. Đôi khi, họ và các đối thủ của họ tiến hành bạo lực, làm gia tăng sự chia rẽ giữa những phe có vẻ là đồng minh.
Vào mùa xuân năm 1947, sự đoàn kết mong manh của Việt Minh bị rạn nứt. Một cánh được lãnh đạo bởi các nhóm không cộng sản, những người không muốn phục tùng lãnh đạo cộng sản nữa. Những nhóm này thường sẵn sàng cộng tác với Pháp trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài, hầu hết đều tìm kiếm độc lập cho Việt Nam. Khi các nhóm này rời khỏi Việt Minh, lực lượng Kháng chiến do cộng sản lãnh đạo còn lại đã suy yếu. Sự thật này sẽ định hình phần còn lại của cuộc chiến.
Sự rạn nứt thứ hai không được thảo luận nhiều trong các nguồn tiếng Việt, vì chủ đề rất nhạy cảm: Bạo lực dân tộc Khmer-Việt, đôi khi do người Pháp kích động, nổ ra, đẩy nhiều người Khmer chấm dứt cộng tác với người Việt.
Vết nứt kép lộn xộn này đã định hình sâu sắc nền chính trị miền Nam cho đến năm 1975 và cả sau đó.
Mặc dù phác thảo trên về sự nứt gãy ở Việt Nam vào năm 1947 đã được biết đến trong hơn 70 năm, một số chi tiết chính đáng ngạc nhiên vẫn chưa rõ ràng hoặc còn nhiều tranh cãi. Lấy ví dụ, vụ giết Nhà Tiên Tri Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ. Về chuyện này, chính phủ Việt Nam và các nhà lãnh đạo Hòa Hảo và các nhà sử học đã không đạt được hiểu biết chung về những gì đã xảy ra. Cuốn sách của tôi, sử dụng những tài liệu gốc do tình báo quân đội Pháp thu thập, một số từ Hòa Hảo và một số từ phe kháng chiến do cộng sản lãnh đạo, cung cấp một cách giải thích mới lạ về những gì đã thực sự xảy ra. (Để biết chi tiết về lập luận của tôi về vụ giết người này, xin xem trang 114-127 trong cuốn sách của tôi.)
Cuốn sách của tôi xác nhận lập luận lâu nay của bên Hòa Hảo rằng ông Huỳnh Phú Sổ bị giết vào khoảng 9 giờ tối vào ngày 16 tháng 4 tại Đốc Vàng, thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Tôi cho rằng vụ giết người này có thể là một tai nạn hoặc đơn giản là một vụ giết người của một cán bộ cấp thấp, không được các thành viên cấp cao của Đảng Cộng sản Đông Dương cho phép. Tuy nhiên, cuốn sách của tôi cũng gợi ý, dựa trên bằng chứng từ chính Việt Minh, rằng những người cộng sản hàng đầu, có thể được sự cho phép của Trung ương Đảng, sau đó bịa ra một phiên tòa sau cái chết của Huỳnh Phú Sổ, giả vờ để xử rồi kết án tử hình Huỳnh Phú Sổ. Tướng Nguyễn Bình sau đó tuyên bố “hành quyết” vào ngày 20 tháng 5 năm 1947. Việc cố gắng “hợp pháp hóa” và “biện minh” của cấp cao về việc giết người, theo tôi, có nghĩa là các cấp cao của Đảng phải chịu trách nhiệm về việc đó. Hành động này đã đầu độc mối quan hệ của chính phủ với Hòa Hảo cho đến nay. Tất nhiên, vụ việc cũng đảm bảo rằng Hòa Hảo, như Cao Đài và Bình Xuyên, sau đó sẽ tách ra khỏi Việt Minh.
Từ giữa năm 1947 đến năm 1953, sự sụp đổ thể chế, rồi tái sắp xếp, cũng như bạo lực, đã định hình lại đồng bằng sông Cửu Long theo nhiều cách, bao gồm cả việc thay đổi trong cách sử dụng vấn đề sắc tộc; các cải cách về chủ quyền từ cấp độ đế chế xuống cấp làng xã; thay đổi việc sử dụng bạo lực để làm cho nó có mục tiêu hơn và ít phân biệt đối xử hơn; sự nổi lên của các lực lượng dân quân và tự vệ, và sự sụp đổ và xây dựng lại các thiết chế. Tất cả những chủ đề này đều quan trọng, nhưng nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này. Nhưng những phát triển này nhấn mạnh một sự thật chung về chiến tranh: trong khi chiến tranh hủy diệt và giết chết, nó cũng làm biến đổi sinh kế, thể chế, thậm chí cả niềm tin.
Một tác động của bạo lực còn chưa được thảo luận trong các nghiên cứu. Xung đột không chỉ đơn giản là phá hủy các thể chế. Nó cũng bắt đầu một cuộc tan ra dân số lớn ở đồng bằng sông Cửu Long, vì có lẽ 500.000 người đã chạy trốn khỏi các vùng nông thôn xung đột bạo lực để tìm nơi ẩn náu ở các thị trấn và Sài Gòn an toàn hơn. Kết quả có thể gây kinh ngạc, như một nhân chứng nói trong sách Nguyễn Văn Giậu, Việt Nam đẫm máu vì chiến tranh thực dân 1945–54 (s.l., Binh Minh, 1956), trang 95–96.
\”Cần Thơ, miền đồng ruộng phì nhiêu bị bỏ hoang rất nhiều, Cỏ mộc dầy đặc và cao quá đầu người [ . . . ] Dọc đường Long Xuyên qua Rạch giá quãng đường dài tới 65 cây số, ước chừng tới 50 chòi canh, đường này bỏ đã lâu và vì mới mở, nên nhiều đoạn rất xấu, cỏ hoang mọc dầy đường.
Hai bên đường, ruộng lúa ngày trước mầu mỡ bao nhiêu, trái lại ngày nay hoang phố bấy nhiêu. Ruộng trông bát ngát thẳng cánh có bay, nhưng chỉ có mọc hoang um tùm. Từ Long Xuyên tới Rạch Giá, đường này chạy theo dòng Sông Đào. Lơ thơ bên kia, bờ sông có vài ba túp lều trên lụp sụp. Những nhà những xóm, nhũng làng ngày xưa dọc đường có chợ đông đảo, tấp nập nay chỉ còn lại sườn nhà trơ trọi hoặc bị phá huỷ hoặc bị dốt. Có chỗ ngày xưa là một cái xóm mà ngày nay không còn dấu vết gì, chỉ thấ mọc xanh rì.\”
Nói cách khác, sức mạnh của chiến tranh và thiên nhiên đã định hình lại vùng nông thôn miền Nam. Đồng bằng sông Cửu Long chứng kiến những biến động xã hội và di cư cưỡng bức trên quy mô chưa từng có trước đây. Quá trình này chỉ đảo ngược vào đầu những năm 1950, khi những người tị nạn Việt Nam bắt đầu trở về nhà của họ ở vùng đồng bằng.
Vào cuối năm 1947, cuộc xung đột, không còn là một cuộc tranh giành giữa hai bên, đã đi vào một bế tắc phức tạp. Mặc dù bị “gãy đôi”, Việt Minh, đang ngày càng nằm trong tay phe cộng sản, vẫn theo đuổi một chiến lược rõ ràng để giành chiến thắng. Người Pháp phản công ở miền Nam với chiến lược “bình định”, và giành được sự hợp tác của nhiều người Việt và Khmer Krom (dân Khmer ở hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long). Các nhóm này bao gồm nhánh Tây Ninh của Cao Đài, dân quân tự xưng bảo vệ Phật giáo Hòa Hảo, cũng như một số nhóm vũ trang khác, chẳng hạn như dân quân Công giáo và lực lượng tự vệ làng Khmer. Từ từ, liên minh do Pháp đứng đầu, được hỗ trợ bởi những sai lầm của Việt Minh, đã giành được ưu thế. Từ năm 1950 trở đi, với sự bùng nổ của Chiến tranh Lạnh (và sự tài trợ của Mỹ cho cuộc chiến ở Đông Dương), cuộc chiến ở miền Nam nghiêng về phía Pháp, Quốc gia Việt Nam và các nhóm chống cộng địa phương. Đến năm 1953, liên minh chống cộng Pháp-Việt ở Nam Bộ đã đánh bại cuộc Kháng chiến ở hầu hết các vùng đồng bằng. Nói cách khác, miền Nam khác hẳn với miền Trung và miền Bắc.
Câu hỏi chính trị quan trọng từ năm 1947 đến năm 1954, là: ai sẽ kiểm soát miền Nam đất nước? Vào năm 1954, lực lượng đối đầu phe kháng chiến tại Đồng bằng sông Cửu Long vẫn dựa vào nguồn tài trợ của Pháp. Khi hệ thống này tan rã vào năm 1954, và người Mỹ gạt người Pháp sang một bên, miền Nam bước vào một giai đoạn hỗn loạn mới. Pháp sẽ thua trong cuộc chiến và Việt Nam sẽ hoàn toàn độc lập. Không ai trong số những người Việt Nam hoặc người Khmer không cộng sản ở miền Nam lại lên nắm quyền vào năm 1954. Thay vào đó, họ dọn đường cho sự nổi lên của Thủ tướng Ngô Đình Diệm vào năm 1954, người cũng sẽ nắm quyền kiểm soát bộ máy nhà nước. Điều này lại mở đầu cho một chương mới của lịch sử kéo dài đến năm 1975.
Giáo sư Shawn McHale hiện công tác tại Khoa Lịch sử, Đại học George Washington, Hoa Kỳ. Ông nhận bằng tiến sĩ năm 1995 của Đại học Cornell, và chuyên về lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á.