June 19, 2023
Một nhà bất đồng chính kiến kể, người Thượng luôn đấu tranh cho một lý tưởng “đất đai phải của người Thượng, tôn giáo phải được tự do và Tây nguyên phải được tự trị”.
Năm 1986 khi tôi vào Đắk Lắk vẫn thấy còn rất nhiều người đồng bào đeo gùi đi bộ dọc theo những con dốc thoai thoải của Tây Nguyên, năm 2020 tôi vào Đắk Lắk xem đồng bào hát múa cồng chiêng, sau khi xem hỏi ra mới biết hầu hết là người Kinh biểu diễn. Muốn xác định một người dân tộc thiểu số chắc chỉ còn nhìn giấy căn cước còn bề ngoài thì đã 100% là người Kinh.
Họ đã “bị” hay “được” nền “văn minh” của dân tộc Kinh khai hóa? Do chưa có điều tra xã hội học một cách khách quan và nghiêm túc, cho nên không ai biết được. Thế nhưng câu chuyện của bốn người Thượng ở cùng tôi trong trại An Điềm hé mở một câu trả lời theo quan điểm của họ.
Ở trại giam An Điềm, Quảng Nam, tôi bị giam chung cùng bốn anh em người Thượng trong khu “An ninh quốc gia”. Đó là Kpa Chin, Kpui Mel, Siu Thái (Ama Thương) và Nay Y Nga. Họ đều bị kết án về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết” được Quy định tại Điều 87 BLHS năm 1999 và tên của họ có trong danh sách các tù nhân lương tâm người Thượng bị cầm tù.
Họ ít nói chuyện với anh em người Kinh. Họ rụt rè khi bắt đầu câu chuyện nhưng lâu dần, cuộc hội thoại cũng được nuôi dưỡng và khi nhìn sâu vào mắt họ tôi thấy sự thiện lành và chân thật.
Kpa Chin sinh năm 1965, đến từ làng Plei Kho, Huyện Chư Sê, Gia Lai trong một gia đình có ba anh em trai đều bị đi tù, trong đó một người em bị đánh chết trong trại. Kpa Chin là thủ lĩnh, thông thạo tiếng Kinh nhưng chỉ nói những điều cần nói và rất ngắn gọn. Ông tỏ vẻ khinh thường người Kinh và những ngày đầu không nhận quà của tôi chia sẻ cho anh. Ông nói cả gia đình mình đấu tranh cho một lý tưởng “đất đai phải của người Thượng, tôn giáo phải được tự do và Tây nguyên phải được tự trị”. Ông bị bắt năm 2006 và kết án 15 năm tù và ba năm quản chế.
Kpuih Mel ở cùng phòng giam với tôi, Ông nói tiếng Kinh rất kém, nhưng có một câu tôi nghe thường xuyên “mình chỉ muốn tốt đẹp thôi, muốn hằng ngày đi làm và Chủ Nhật đi lễ nhà thờ”. Do không được đọc cáo trạng, tôi cũng không biết ông đã làm gì để phá hoại chính sách “đoàn kết”. Ông bị kêu án tám năm.
Siu Thái thì khác, đôi lúc anh nhìn tôi, ánh mắt lạ của một tù nhân lương tâm chứa chất sự bí ẩn, nhẫn nại và cả căm thù. Có thức ăn ngon vợ gửi, tôi đều ưu tiên cho Siu Thái. Chính tôi và nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đã làm đơn đề nghị cho Siu Thái được đi chữa bệnh.
Nhưng có một căn bệnh không bao giờ chữa được. Đó là nỗi buồn u uất về một đất nước đã mất, là một sự hận thù khôn nguôi trong lòng anh, như thường trực một Hận Đồ Bàn của người Chăm. Anh bị coi là tâm thần và đưa đi chữa trị một thời gian, khi về tôi xin ở cùng buồng với anh nhưng quản giáo không cho vì nói anh ấy vẫn rất “nguy hiểm”.
Nay Y Nga thì chỉ hát. Có những hôm hai anh em đứng co ro dưới hàng hiên trong trời mưa lạnh ở vùng núi Đại Lãnh và nghe Y Nga hát, từ bài này sang bài khác. Tôi không hiểu nội dung em hát nhưng em ấy nói là về “quê hương và rừng cây”.
Em nói “chỉ mong ra tù được khỏe mạnh để đưa con đến trường như người Kinh”. Nhưng ngay khi ra tù, em liền băng rừng vượt biên và hiện đang tị nạn ở Thái Lan.
Tôi không biết bốn người bạn tù người Thượng thực sự đã làm gì nhưng vào những lúc gần gũi nhất, tôi thấy mong ước của họ rất đơn giản là được tự do “đi rẫy và đến nhà thờ”. Có một lần khi lặng im cầu nguyện, Kpa Chin cầm chặt tay tôi, mặt sáng lên với sự tin tưởng khác thường. Hình như anh muốn chia sẻ một điều gì đó có vẻ quan trọng nhưng rồi giây phút đó đã vĩnh viễn qua đi trong im lặng.
Cả bốn người đều coi Tây Nguyên là của họ và người Kinh đã vào chiếm giữ, phá tan rừng già như xé nát lồng ngực rồi chiếm lấy trái tim rừng thiêng liêng đã từng tỏa sáng. Tôi không biết niềm tin này hình thành ra sao, là của thiểu số hay đa số người Thượng ở Tây nguyên, nhưng có vẻ rất khó chuyển lay.
Đây có thể là nguồn cơn đang âm ỉ trong lòng họ…
Lê Quốc Quân