Thứ Ba, 18 Tháng Bảy 2023
17-7-2023
Ngày 23/5/2018, tôi treo biểu ngữ mang nội dung tố cáo ông Hoàng Trung Hải phạm tội “Gián điệp” theo Điều 110 BLHS và ông Nguyễn Phú Trọng phạm tội “Phản quốc” theo Điều 108 BLHS, trên cầu vượt trước trường Đại học Thủy Lợi, phố Tây Sơn, Hà Nội. Do hành động đó, ngày 5/7/2018, tôi bị Công an TP Hà Nội khởi tố và bắt giam theo Điều 331 BLHS “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Luật pháp Việt Nam không có điều luật nào cấm công dân treo biểu ngữ. Vậy nên, muốn kết luận tôi có vi phạm pháp luật hay không thì cần phải chứng minh nội dung biểu ngữ trên là đúng hay sai. Theo logic thông thường đó, các cơ quan tố tụng (Công an và Viện Kiểm sát) trước hết phải khởi tố vụ án “Lê Anh Hùng treo biểu ngữ…” rồi mời (hoặc triệu tập) đương sự đến và yêu cầu đương sự cung cấp các căn cứ, bằng chứng, lý lẽ bảo vệ lời tố cáo của mình. Sau khi điều tra, xác minh, nếu tôi đúng thì khởi tố những người mà tôi tố cáo; nếu tôi sai thì khởi tố tôi về tội “Vu khống” theo Điều 156 BLHS (Liên quan đến vụ án này, năm 2009, Công an Quảng Trị cũng đã khởi tố tôi về tội “Vu khống”).
Tuy nhiên, thay vì phải làm theo quy trình thông thường nói trên, các cơ quan tố tụng ở Hà Nội lại khởi tố và bắt giam tôi theo một điều luật hết sức mơ hồ (Điều 331 BLHS), mà không cho tôi bất kỳ cơ hội nào để bảo vệ lời tố cáo của mình. Như vậy, trong vụ án Lê Anh Hùng, các cơ quan tố tụng đã vi phạm nghiêm trọng quy trình tố tụng thông thường đối với một vụ án tố cáo.
Nghiêm trọng hơn, sau khi khởi tố và bắt giam tôi, các cơ quan tố tụng TP Hà Nội còn vi phạm một nguyên tắc cơ bản trong điều tra hình sự, được quy định tại Điều 189 của Bộ luật Tố tụng Hình sự – đó là việc đối chất. Khoản 1 Điều 189 (“Đối chất”) quy định: “Trường hợp có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai người hay nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn thì Điều tra viên tiến hành đối chất”.
Trong vụ tố cáo của tôi, trước sau như một, tôi luôn khẳng định, những thông tin liên quan đến vụ việc là do một nhân chứng sống, người từng nằm trong đường dây ma túy của Phó Thủ tướng gốc Tàu, Hoàng Trung Hả,i cung cấp cho tôi. Tôi có đầy đủ bằng chứng, chứng minh điều này. Cơ quan điều tra đã dựa vào lời khai (vốn mâu thuẫn với khẳng định của tôi) của nhân chứng này để kết tội tôi, trong khi lại không cho tôi được đối chất với người đó, dù tôi đã nhiều lần yêu cầu. Đối chất là một nguyên tắc cơ bản trong điều tra hình sự, nó quan trọng đến mức ở Mỹ nó được quy định trong Hiến pháp (Tu chính án số 6). Rõ ràng, đây là một sự vi phạm pháp luật trắng trợn của các cơ quan tố tụng Việt Nam.
***
Việc tôi tố cáo ông Hoàng Trung Hải phạm tội “Gián điệp” (Điều 110 BLHS) và ông Nguyễn Phú Trọng phạm tội “Phản quốc” (Điều 108 BLHS) dựa trên những căn cứ sau:
1) Điều 46 Hiến pháp Việt Nam quy định, công dân có nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia; Điều 4 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định, mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm;
2) Từ hàng ngàn năm nay, Trung Quốc luôn có dã tâm thôn tính quốc gia láng giềng phương Nam của họ. Trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Gần đây nhất, Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam kéo dài 10 năm, từ năm 1979 đến 1989. Hiện nay, Trung Quốc đang chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (mà họ đánh chiếm từ năm 1974) và một phần quần đảo Trường Sa (mà họ đánh chiếm từ năm 1988) của Việt Nam;
3) Lịch sử đã ghi lại, trong cuộc chiến tranh Việt–Trung từ 1979–1989, những người Hoa kiều sinh sống gần biên giới đã trở thành lực lượng nằm vùng tiếp ứng cho đội quân xâm lược đến từ phương bắc;
4) Ngày 26/10/2007, Bộ trưởng Công an ban hành Quyết định số 1275/2007/QĐ-BCA, trong đó quy định cấm cán bộ, chiến sỹ công an kết hôn với người “có gia đình hoặc bản thân là người gốc Hoa (Trung Quốc)”. Hàng chục năm qua, Việt Nam đã đưa ra xét xử rất nhiều vụ án gián điệp Trung Quốc mà chúng mua chuộc, cài cắm trong bộ máy Việt Nam. (Một chiến sỹ công an bình thường thậm chí còn không được phép kết hôn với người gốc Hoa, vậy mà ông Hoàng Trung Hải vốn là người Hoa lại nắm giữ hàng loạt chức vụ trọng yếu, liên quan đến an ninh quốc gia trong bộ máy suốt hàng chục năm);
5) Bức “Tâm Huyết Thư” ngày 7/5/2007 của một số cán bộ, đảng viên cao cấp đã hoặc đang công tác tại Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương và một số cơ quan trọng yếu cơ mật khác của Đảng, Nhà nước CHXHCNVN gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Ủy viên BCHTW Đảng khóa X, tố cáo ông Hoàng Trung Hải là người Hoa nhưng man khai lý lịch là người Kinh (đây là bức thư tập thể, do ông Nguyễn Bình Giang, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương, nguyên Trưởng đoàn Thẩm tra lý lịch ông Hoàng Trung Hải năm 2001, đứng tên – xem nội dung bức Tâm Huyết Thư tại địa chỉ: https://vuhuyduc.blogspot.com/2012/05/tam-huyet-thu-to-cao-hoang-trung-hai.html);
6) Ngày 5/8/2012, Đại tá Phạm Hiện (cán bộ lão thành cách mạng; số nhà 5 hẻm 2/245/6 phố Khương Trung, Hà Nội) đã gửi đơn thư cho các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội nước CHXHCNVN, tố cáo Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải là người Hoa khai man lý lịch và buôn bán ma túy (xem nội dung bức thư tại địa chỉ: https://danlambaovn.blogspot.com/2012/08/mot-pho-thu-tuong-goc-hoa-khai-man-ly.html);
7) Ngày 23/4/2016, nhà giáo Nguyễn Tiến Dân (Hà Nội) đăng bài viết “Hoàng Trung Hải, con bài tủ trong chiến lược Hán hóa Việt Nam” (xem bài vết tại địa chỉ: https://anhbasam.wordpress.com/2016/04/23/7930-hoang-trung-hai-con-bai-tu-trong-chien-luoc-han-hoa-viet-nam/);
8) Ngày 2/7/2017, Đại tá Nguyễn Văn Tuyến (cán bộ tiền khởi nghĩa, trú tại 106 C19, phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân – Hà Nội) gửi thư cho TBT Nguyễn Phú Trọng, yêu cầu xử lý ông Hoàng Trung Hải với lý do khuất tất về lý lịch (xem nội dung bức thư tại địa chỉ: https://baotiengdan.com/2017/08/07/ong-nguyen-van-tuyen-cuu-dai-ta-quan-doi-de-nghi-xu-ly-ong-hoang-trung-hai/);
9) Hàng loạt việc làm của ông Hoàng Trung Hải gây nguy hại cho Việt Nam và làm lợi cho Trung Quốc một cách có hệ thống kể từ khi ông ta làm Bộ trưởng Công nghiệp (2002-2007), Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách kinh tế ngành (s007-2016) và Bí thư Thành ủy Hà Nội (2016-2019): Mua điện Trung Quốc với giá cắt cổ cùng những điều kiện ngặt nghèo; 90% dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia (lĩnh vực do ông Hoàng Trung Hải phụ trách) rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc; hiểm họa Formosa Hà Tĩnh (ông Hoàng Trung Hải là người ký quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư và quyết định phê duyệt dự án); hàng trăm ngàn ha rừng đầu nguồn biên giới rơi vào tay các công ty Trung Quốc (ông Hoàng Trung Hải vừa là Phó Thủ tướng được giao chỉ đạo Bộ NN&PTNT vừa là Trưởng ban Chỉ đạo Quốc gia về Kế hoạch Bảo vệ và Phát triển rừng), v.v.. Thảm họa Formosa Hà Tĩnh mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm tội ác mà Hoàng Trung Hải và đồng bọn đã gây ra cho Việt Nam. Di họa của chúng sẽ còn kéo dài hàng chục, thậm chí hàng trăm năm sau;
10) Từ tháng 4/2008 đến nay, tôi đã tố cáo ông Hoàng Trung Hải phạm một loạt tội ác khủng khiếp: buôn bán ma túy, giết người, buôn lậu vũ khí, bán tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia cho Trung Quốc, trùm băng đảng xã hội đen, với sự bao che, đồng lõa và tiếp tay của TBT Nông Đức Mạnh (2001-2011), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016) và (kể từ năm 2011) là TBT Nguyễn Phú Trọng. Ông Nguyễn Phú Trọng, trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, cũng phải chịu trách nhiệm vì đã phê chuẩn ông Hoàng Trung Hải làm Phó Thủ tướng Chính phủ từ ngày 2/8/2007, bất chấp việc ông ta đã bị tố cáo trong bức Tâm Huyết Thư nói trên;
11) Chỉ thị 15 ngày 7/7/2007 của Bộ Chính trị quy định: “Các cơ quan bảo vệ pháp luật khi phát hiện có dấu hiệu đảng viên vi phạm đều phải báo cáo bằng văn bản với tổ chức đảng, cấp ủy đảng quản lý trực tiếp đảng viên đó, khi được tổ chức đảng, cấp ủy đảng xem xét đồng ý cho điều tra, khởi tố, bắt… thì cơ quan bảo vệ pháp luật mới được tiến hành các biện pháp tố tụng.” Vì vậy, các cơ quan tố tụng ở Việt Nam (Công an, Viện Kiểm sát) muốn điều tra xử lý ông Hoàng Trung Hải thì phải có ý kiến chấp thuận của Bộ Chính trị, đứng đầu là TBT Nguyễn Phú Trọng, điều mà ông ta đã phớt lờ suốt 12 năm qua.
***
Vì những lý do nêu trên, ngày 25/2/2023, tại Trại giam Nam Hà, tôi đã viết đơn đề nghị xem xét lại vụ án của tôi theo trình tự giám đốc thẩm.
Điều 370 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Điều 371 “Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm” quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ… (2) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.”
Yêu cầu của tôi là được đối chất với người đã cung cấp thông tin cho tôi. Nếu tôi đúng thì phải khởi tố và bắt giam những kẻ bị tôi tố cáo; nếu tôi sai thì xử tôi về tội “Vu khống”.
Hơn 4 tháng đã trôi qua kể từ ngày gửi đơn, nhưng tôi vẫn chưa nhận được bất kỳ hồi âm nào từ phía cơ quan chức năng. Tôi sẽ chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi đến Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội để hỏi về lá đơn nói trên.
Không ai bị kết tội hai lần về cùng một hành vi. Tôi phải được minh oan và được bồi thường những tổn thất to lớn về thể chất và tinh thần mà tôi phải chịu đựng trong suốt 5 năm qua, đặc biệt là thời gian 3 năm kinh hoàng trong Viện Pháp y Tâm thần Trung ương. Quan trọng hơn, những kẻ phạm tội ác với quốc gia, với dân tộc phải bị vạch mặt và trừng trị đích đáng. Tôi sẽ theo đuổi đến cùng vụ án này.
Điều 484 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định, người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, tôi yêu cầu Bộ Công an phải đảm bảo an toàn tính mạng, an toàn thân thể và tinh thần cho tôi cũng như người thân thích của tôi.
Những người bị tôi tố cáo kể từ năm 2008 đến nay đều là lãnh đạo quốc gia, trước kia là TBT Nông Đức Mạnh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và hiện tại là đương kim TBT Nguyễn Phú Trọng (không tính Hoàng Trung Hải – người từng làm Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế ngành, Ủy viên Bộ Chính trị/Bí thư Thành ủy Hà Nội/Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô – bởi ông ta là người Hán). Họ là những người đã và đang quyết định tiến trình lịch sử của đất nước; họ đều sẽ trở thành những nhân vật lịch sử. Vậy nên vụ án của tôi, dù muốn hay không, cũng là một vụ án lịch sử.
Tôi tin rằng, bất luận thế nào, không một Đảng viên ĐCSVN nào lại muốn đảng mình, đất nước mình được lãnh đạo bởi một kẻ phạm tội “Phản quốc”. Đó là nỗi nhục không thể gột rửa của quốc gia, của dân tộc, và đặc biệt là của Đảng CSVN.