Thứ Sáu, 03 Tháng Mười Một 2023
https://nhacxua.vn/cuoc-doi-va-su-nghiep-cua-danh-ca-duy-trac-tieng-hat-dai-ho-cam/
VÀI KỶ NIỆM VỚI CA SĨ DUY TRÁC
Hát Tù Ca Với Anh Trác Ở Trại Z30D
Khoảng tháng 6 năm 1979 tôi bị giải từ Phước Long về trại Z30D Hàm Tân. Ngay ngày đầu tiên tôi đã quen với Vũ Mạnh Dũng, một sinh viên văn khoa (trước 75) bị bắt vì tội tuyên truyền phản cách mạng. Không biết Dũng hỏi ai mà biết tôi ở Phước Long thường “gầy sòng” tụ họp anh em hát tù ca nên đến thăm và bắt chuyện làm quen với tôi trước. Dũng trẻ hơn tôi mấy tuổi nhưng lanh lợi, ăn nói hoạt bát và đặc biệt là ngôn ngữ giao tiếp rất “văn chương”.
Hôm sau Dũng dẫn tôi về chỗ của mình ở một nhà khác và hai anh em “giao lưu” tù ca. Dũng đệm đàn vững và giọng hát cũng truyền cảm, dễ thương. Trong lúc “xả hơi” Dũng cho biết ở cùng nhà có ca sĩ Duy Trác (một trong hai nam ca sĩ nổi tiếng bậc nhất của Miền Nam trước 1975) rất được bạn tù ngưỡng mộ và yêu mến vì đã sáng tác hai bản tù ca rất hay. Dũng bảo tôi sẵn sàng để sáng Chủ Nhật tới sẽ sắp xếp cho tôi gặp anh Trác ở chỗ của Dũng.
Chủ Nhật ấy, đã hẹn trước nên khi tôi đến đưọc vài phút thì một “trung niên hán tử”, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt thanh tú, hiền lành, từ đầu nhà bước lại. Đó là ca sĩ Duy Trác, người mà tôi chưa từng gặp mặt nhưng đã mến mộ từ lâu. Anh em bắt tay nhau rồi cùng leo lên tầng trên và lui hẳn vào chỗ nằm của Dũng ở trong góc.
Sau vài câu thăm hỏi xã giao Dũng cầm đàn dạo nhạc và hát nho nhỏ một bản nhạc tình để “khởi động” rồi đưa đàn cho anh Trác.
Anh cầm đàn rồi kể chuyện một đêm Giáng Sinh, nhìn qua khe vách, nghe tiếng chim hót trên bờ rào kẽm gai, nghĩ đến thân phận tù đày, mủi lòng viết bản nhạc có tựa đề LỜI NGUYỆN TRONG TÙ. Và anh dạo đàn rồi bắt đầu hát:
Có con chim nhỏ trên hàng rào kẽm gai.
Đứng im than thở; cuộc đời còn có ai?
“Này chim có biết nơi đây sống kiếp đọa đày,
sống không ngày mai, như kiếp cỏ cây?”
Có ngôi sao nhỏ trên bầu trời giá đêm.
Suốt đêm không ngủ thương ngục tù tối đen.
“Nhờ sao đem đến tin vui tới khắp mọi người:
Chúa đã giáng sinh cứu rỗi trần ai.”
ĐK:
“Xin Chúa hãy vỗ về, ru no tròn giấc ngủ trẻ thơ.
Xin một giấc mơ lành cho mẹ già từ lâu mong nhớ.
Xin nguyện cầu cho vợ hiền lẻ bóng nơi xa.
Xin nguyện cầu, xin nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ tóc rối.
Xin quét hết lũ người sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười cho mọi người được sống bình yên”.
Anh trở lại điệp khúc một lần nữa rồi chấm dứt ở Coda:
“Vinh danh Thiên Chúa! Vinh danh Thiên Chúa! A – men”.
Tiếp theo, Dũng hát MưaTrên Ngục Tù của Nguyễn Hưng Đạo (“cư dân” trại Z30D), tôi hát Bò Đỏ – thơ NguyễnVăn Kỳ, Trương Văn Út phổ nhạc – thi sĩ và nhạc sĩ đều từ Phước Long. (Vì đâylà bài viết về anh Trác nên phần trình bày của 2 “nhân vật phụ” xin được “tiềm ẩn”)
Xong, chúng tôi trò chuyện một lúc lâu rồi tôi trao đàn cho anh Trác.
Anh Trác ôm đàn và trước khi hát, cũng kể lể chút nguồn cơn:
Một hôm, chúng tôi được đưa đi đắp một con đường từ quốc lộ 1 vào trại Z30D. Đang lao động, tôi thấy một cô gái khoảng 20 tuổi, đeo ba lô đi về phía trại giam. Lúc cô gái đến gần chỗ mình tôi chào và hỏi thăm:
“Sài Gòn có gì vui không em?”
Cô nhỏ nhẹ trả lời:
“Sài Gòn chỉ vui khicác anh về”.
Xúc động vì câu trả lời của cô gái tôi đã viết bản nhạc có tựa đề SÀI GÒN CHỉ VUI KHI CÁC ANH VỀ. Rồi anh bắt đầu dạo đàn và cất tiếng hát:
Tôi đã gặp em, bỡ ngỡ tình cờ
Đôi mắt ngây thơ, đến từ thành phố
Ngục tù tối tăm nói với cuộc đời:
“Sài Gòn có vui? Sài Gòn có vui?”
Em ngước nhìn tôi, cúi đầu nói nhỏ:
“Còn gì nữa đâu, thành phố mộng mơ
Thành phố đớn đau vẫn thường nhắn nhủ:
‘Sài Gòn chỉ vui khi các anh về’”
“Tôi sẽ về đòi lại quê hương đã mất.
Tôi sẽ về cùng em lau khô hàng nước mắt
Tôi sẽ mời em dạo chơi phố xá tươi vui
những con đường tình trường xưa công viên tràn nắng mới.
Tôi sẽ về qùy bên thánh giá bao dung
Tôi sẽ nguyện cầu cho tình yêu và cuộc sống
Đem tiếng khóc cười dâng đời khúc hát say mê
Cám ơn Sài Gòn, tôi sẽ trở về”.
Anh Trác lập lại điệp khúcmột lần nữa rồi kết thúc bằng CODA.
Ca từ của bản nhạc đơn giản, dễ hiểu và dễ cảm. Đơn giản nhưng vẫn đủ đẹp để chuyển tải tâm sự của tác giả. Có điều tâm sự của tác giả thì, do đối diện trực tiếp với cảnh đời, nên rất thật, và dĩ nhiên, cảm xúc cũng rất thật. Đặc biệt, sức gợi của câu ca từ (cũng là cái tựa của bản nhạc) – Sài Gòn Chi Vui Khi Các Anh Về – thật ghê gớm:
Không cần tranh luận ai chính nghĩa, ai phi nghĩa, không cần những tĩnh từ, trạng từ xấu xa để mô tả thái độ, cách cư xử của những người cộng sản đối với người dân miền nam. Chỉ cần một câu ngắn gọn “Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về” là đủ. Những gì còn lại sẽ được hiểu ngầm, sẽ tự động thấm vào hồn người thưởng thức.
Từ một góc nhỏ ở tầng trên của căn lán (nhà tập thể) khá lớn trong trại Z30D tiếng hát anh Trác – có tiếng đàn Ghi-ta nho nhỏ phụ họa – đã trôi thẳng vào tâm hồn hai người tù trẻ tuổi. Giọng anh Trác ấm quá, luyến láy điêu luyện quá, ca từ lại hợp cảnh hợp tình nên một số bạn tù khác đang nằm thư giãn gần đấy cũng ngồi dậy lắng nghe. Riêng tôi, nghe hết CODA:
“Sài Gòn mến yêu! Người Tình dấu yêu! Tôi sẽ … trở … về”
lúc giọng anh Trác vẫn còn ngân vang, đưa tay lên vuốt mặt thì không biết nước mắt đã ướt mi từ lúc nào.
Anh em nói chuyện một lúc nữa thì có tiếng lao xao chuẩn bị lãnh cơm trưa (Chủ Nhật không đi lao động nên trại phát cơm trưa sớm). Anh Trác nhoài người ra cầu thang và trước khi vịn tay vào móc sắt vừa trèo vừa đu xuống tầng dưới để bước xuống nền nhà còn nói với một câu giã từ đầy hứa hẹn:
Khi nào “gầy được sòng” cứ hú tôi. Cái gì chứ văn nghệ thì tôi không từ chối.”
Buổi “văn nghệ bỏ túi” kế tiếp chưa thực hiện được thì tôi đã bị nhốt xà lim và sau đó bị giải về A 20 Xuân Phước. Anh Trác và Vũ Mạnh Dũng cũng có mặt trong đoàn tù này.
Anh Trác Hát Ở A20
Từ Z30D chuyển đến A20 được vài ngày, vào một buổi chiều se se lạnh (chúng tôi còn đang học nội quy, chưa bị đi lao động) chợt có tiếng hát nơi phòng ăn. Tôi đến nơi thì thấy Rene’ Hanh và Toàn (rỗ), cựu sĩ quan trẻ, người đàn, người hát bài “Lá Đỏ” (nhạc bộ đội Trường Sơn). Rene’ Hanh hát khá hay. Giọng ấm, phát âm rõ ràng, ăn nhịp. Bài hát chấm dứt. Một số anh em thưởng ngoạn vỗ tay. Toàn cao hứng tiếp tục với bài “Tình Đất Đỏ Miền Đông” của Trần Long Ẩn.
Khi Toàn hát xong tôi bấm Vũ Mạnh Dũng định chiếm sân khấu làm một phùa văn nghệ “phe ta” thì đã thấy anh Trác bước tới cầm đàn. Người ca sĩ được rất nhiều người ưa thích ở miền nam, không một lời giới thiệu, dạo đàn và cất tiếng hát. Giọng anh còn rất ngọt với bài Lời Nguyện Trong Tù do chính anh sáng tác. Mọi người lắng nghe say sưa. Bài hát vừa hết thì Toàn kéo René Hanh đi và nói khá lớn tiếng:
“Mình đi thôi. Anh ấy hát nhạc không đúng chính sách”.
Đụng vào chỗ nhột, những người khác cũng bỏ đi. Và âm mưu “gầy sòng” của tôi thất bại.
Nhưng trong không khí “ngột ngạt, khó thở” của A20 (tên gọi khác là Trại Trừng Giới) – nơi tập trung những thành phần “cứng đầu, khó bảo” từ các trại khác dồn về – mà dám hát một bản nhạc “không đúng chính sách” như anh Trác thì nếu độ lớn của lá gan không ở mức “đáng nể” thì “cơn hứng của nghệ sĩ” cũng cao ngất để có thể phủ mờ nỗi lo lắng, sợ sệt của lý trí.
Dù ở vào trường hợp nào đi nữa đám tù trẻ chúng tôi đều nhìn anh với đôi mắt kính trọng và cảm phục
Nhân Cách Của Một Nghệ Sĩ
Ở A20 vào thời điểm đó, có chân trong đội văn nghệ, cơ hội sống sót để trở về với gia đình – so với các anh em khác (trừ đội nhà bếp) – có thể nói là cao hơn rất nhiều. Ở các đội khác mọi người phải dầm mưa dãi nắng, cuốc đất, gieo trồng, khuân vác nặng nhọc suốt 8 tiếng mỗi ngày, ăn uống thiếu thốn, kham khổ, thân xác héo mòn. Còn ở đội văn nghệ chỉ hát hỏng khoảng 3 tiếng trong hội trường mát mẻ rồi thì tự do đi tìm rau hoang cỏ dại, nấu canh nóng sốt để bữa ăn có thêm chất bổ dưỡng.
Vì thế, nhiều người bon chen, cậy cục để có một chỗ “ngồi mát ăn bát vàng”.
Là một ca sĩ nổi danh như anh Trác, làm sao tránh khỏi đôi mắt và đôi tai “tinh quái” của tay cán bộ giáo dục (tên Hanh). Nội tình việc giới thiệu, đề cử (hay bắt buộc) anh vào đội văn nghệ xảy ra như thế nào thì tôi không rõ. Nhưng anh đã vào đội văn nghệ và đã có một số ngày lên hội trường tập tành với mọi người trong đội. Điều này thì ai cũng biết.
Riêng tôi, một hôm trên đường ra bãi tập họp chờ đi lao động, thấy đội văn nghệ cũng hàng lớp lên hội trường tập dợt, không nhớ ai đó đã chỉ anh Trác vừa cười vừa nói:
“Nhìn ca sĩ Duy Trác kìa! Lên hội trường ca hát mà mặt thểu não cứ như là đi đưa đám ma ấy”.
Tôi đưa mắt nhìn về hướng anh đi và lặng yên thông cảm.
Thế rồi mấy ngày sau tôi được lệnh không đi lao động để ở nhà “làm việc” với cán bộ Tri an ninh. Chờ hơn một tiếng thì thấy anh Trác trên đường từ hội trường về nhà 3 (cùng nhà với tôi), mặt mày tươi vui và vừa đi vừa nhảy chân sáo. Đi qua chỗ tôi anh cười cười nói nhỏ:
“Bị đuổi rồi. Hát sai nhịp.”
Tôi phì cười. Mừng cho anh. Nhưng rồi lại ái ngại cho anh. Và sau cùng thì hết lòng nể phục anh.
Với vóc người nhỏ con yếu đuối như thế, may mắn được vào chỗ mát mẻ, nhàn hạ, thỉnh thoảng được tặng thêm miếng cháy, kiếm thêm lá rau dại, cơ hội sống còn để trở về với vợ con nhiều hơn, lại vùng vằng không chịu, chấp nhận ra đội nắng, dầm mưa, chịu đói. Để được cái gì? Để khỏi phải hát những lời không hợp với lòng mình.
Với tôi, dám làm điều đó, anh đã biểu lộ một nhân cách rất cao đẹp của người Nghệ Sĩ.
Hai Món Quà Tết Quý Giá
Sáng mồng 1 Tết năm Nhâm Tuất (1982) tôi đang ngồi nhâm nhi mấy lát khoai mì H34 thì Ngọc Đen và Hải Bầu chạy vào, mặt vô cùng phấn khích. Ngọc lên tiếng: “Ở trại giờ vắng hoe, chỉ còn 1 thằng võ trang ở tít cổng ngoài; chắc tụi nó tụ họp ăn nhậu ở khu trung tâm. Mày tính sao?”
Tôi vẫn chưa hiểu ý Ngọc Đen nên hỏi lại: “Tính cái gì?”
Hải Bầu chêm vào: “Tụi tui tính nói với ông (tôi không thân với Hải nên vẫn gọi nhau là ông, xưng tôi) nhân dịp này làm một buổi văn nghệ long trời lở đất, không phải e dè gì nữa, chơi tới bến luôn”
……………..
Tôi hỏi: “Chơi ở đâu? Và bao giờ chơi?”
“Nhà 3 mình.” Ngọc Đen trả lời ngay không cần suy nghĩ.
“Tụi tao tính một tiếng nữa sẽ bắt đầu. Làm sao phải xong trước giờ lãnh cơm trưa.”
Như vậy tôi chỉ có một tiếng đồng hồ để soạn một chương trình văn nghệ “tới bến”. Nhưng là tay chuyên “gầy sòng” ở các trại cũ nên tôi cũng không nao núng. Những tiết mục khác của chương trình thì đã có sẵn trong đầu. Tuy nhiên, nghĩ đến 2 bản nhạc của anh Trác thì chợt nhớ ra là “Người đã về rồi” nên tôi hơi bối rối.
Trong trại có Vũ Trọng Khải và Hải Bầu hát 2 bài này “có nét” nhất. Anh Khải giọng ấm hơn nên tôi đã nghiêng về phía ông Đại Úy cảnh sát. Hơn nữa, Hải Bầu đã rất nhuyễn bản Tình Yêu Từ Thung Lũng Khổ Sai của Trần Đức Long nên tôi cũng đỡ áy náy khi dành cả 2 bản nhạc của anh Trác cho Vũ Trọng Khải. Vả lại thời gian gấp rút quá nên tôi đã tự quyết định chứ không bàn bạc với anh em.
(Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20) http://www.saimonthidan.com/?
Rất may, trong 5 buổi văn nghệ của 3 ngày Tết năm đó – sau này được anh em truyền tụng là Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20 – Vũ Trọng Khải đã thể hiện rất thành công tâm tình của anh Trác trong Lời Nguyện Trong Tù và Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về.
Có người đã phát biểu “AnhTrác về mà còn để lại cho anh em hai món quà Tết thật quý giá” (Xin đọc Vũ TrọngKhải thể hiện hai bản nhạc của anh Trác theo link đã dẫn ở phần trên).
Buổi Văn Nghệ Dở Dang
Trong lúc chạy hàng cho bà chị họ con ông bác ở quận 8, bán vải ở chợ An Đông tôi có quen một chị cũng có sạp vải (rất khá giả), thích văn nghệ và cũng mê giọng ca Duy Trác. Nghe tôi kể về tính nghệ sĩ của anh, chị nhờ tôi mời anh về nhà để làm một chầu văn nghệ bỏ túi. Tôi đề nghị thì anh vui vẻ nhận lời ngay.
Anh bảo tôi: “Ông chuẩn bị sẵn cây đàn. Tôi hát, còn ông vừa hát vừa đọc thơ là có thể ‘bao dàn’ một chương trình kha khá”.
Thế là vào tối Thứ Bảy trong tuần lễ đầu tháng 3 năm 1984 tôi với anh mỗi người một chiếc xe đạp từ cuối đường Lý Thái Tổ (Ngã 7 Cộng Hòa) nhắm hướng Cầu Chữ Y thẳng tiến.
Đến nơi, tôi và anh Trác được chị tiếp đón vui vẻ và đưa lên một căn phòng rộng ở trên lầu. Cây đàn Ghi-ta đã để sẵn cạnh chiếc ghế ở vị trí trung tâm. Chỉ vài phút sau là khán giả bước vào tấp nập. Vì lý do an ninh nên không có màn giới thiệu “nghệ sĩ trình diễn” và cũng không có MC dẫn chương trình.
Khán giả vào chỗ ngồi thì anh Trác dạo đàn để không khí thêm chút tươi vui. Khi mọi người yên vị thì anh cất tiếng hát. Bản nhạc MỜI TÔI BẠN NHÉ sẽ làm nóng chương trình.
MỜI TÔI BẠN NHÉ
Này bạn mời tôi ca tôi sẽ ca ngay
Dù giọng khàn môi khô tôi hát say sưa
Này bạn bảo tôi vui tôi sẽ vui liền
Dù buồn phiền quanh đây bao nhiêu năm tháng
Này bạn mời đi xa đã thấy mê tơi
Vì từ nhiều năm qua vẫn cứ loay hoay
Lòng cầu được bình yên sao vẫn rối bời
Giờ ngồi thuyền ra khơi“sướng như Thiên Đàng”.
ĐK:
Niềm vui ở đây đâu chỉ riêng tôi
Mà là niềm vui tất cả mọi người
Niềm đau ở đây đâu phải riêng ai
Mà là niềm đau khắp cả mọi miền.
Này bạn bảo tôi điên tôi thấy vui vui
Vì cuộc đời quanh đây ai đã không điên
Nhiều chuyện kể vui tai nghe rất đau lòng
Chuyện kẻ ở người đi nghe sao không chán
(Tôi quên mất một phiên khúc)
Được nghe một ca sĩ lừng danh hát bản nhạc vừa vui nhộn vừa có chút “nỗi niềm riêng tư” hợp với lòng mình nên khán giả ai cũng mặt mày rạng rỡ, phấn khích. Thấy vậy, anh Trác hát lại cả bài và kết thúc ở Điệp Khúc (Đoạn màu xanh).
Khán giả vỗ tay rất nồng nhiệt. Có người còn la to “Hết sẩy”, “Quá độc”. Tôi vội đưa ngón tay lên miệng và thì thầm hai tiếng “Nho nhỏ”.
Có thêm vài khách nữa mới đến nên mọi người chen nhau ngồi lấn lên phía trước để gần ca sĩ hơn. Không khí thật vui nhộn, hào hứng.
Anh Trác liếc nhìn tôi có ý dò hỏi. Tôi nhẹ nhàng hất hàm nhép miệng (nói thầm không ra tiếng): “Anh hát tiếp đi”.
Chờ cho những lời ngợi khen, bàn tán của khán giả lắng dịu anh dạo đàn và hát bài Ở LẠI:
Ở lại để thấy người ra đi rất nhiều
Ở lại để nghe những hận hờn vọng mãi đêm thâu
Ở lại để thấy những đổi thay trên nét mặt người
Ôi nếp nhăn nào tựa vết roi
Ở lại để thấy đường đi không lối về
……………..
(Phần còn lại của bài hát tôi đã quên)
Bài hát nói đến hoàn cảnh xã hội thay đổi (theo hướng xấu) mà người dân miền nam – không vượt biên được, phải ở lại – đang căng mình chịu đựng.
Khán giả lại vỗ tay vang dội. Anh đưa mắt nhìn tôi rồi định chuyển đàn Ghi-ta qua nhưng tôi xua tay từ chối. Bởi “tranh tài với anh trong lời ca tiếng hát” lúc ấy thì chỉ có thua thiệt. Tôi chọn lối chơi khác – sử dụng “chiêu độc” của mình là đọc thơ.
Và tôi hắng giọng rồi nói với mọi người là sẽ đọc một bài thơ tình: SÀI GÒN MỘT CHIỀU EM LỖI HẸN
Bài thơ này là “hậu quả” của một hiểu lầm. Tôi với Nàng hẹn nhau ở công viên Tao Đàn nhưng tôi lại đãng trí ra quán nước quen ở gần chợ Bến Thành ngồi chờ. Dĩ nhiên, Nàng không đến. Không gặp “người thương” nên buồn bã nổi hứng viết mấy vần thơ trách móc.
Nhưng trong cái không khí của buổi văn nghệ hôm ấy khán giả có ý chỉ mong “tiết mục phụ” của tôi chóng qua để được tiếp tục nghe anh Trác hát nên tôi “biết thân, biết phận” bỏ cái phần “giải thích dài dòng” (chữ xanh) đó để đi thẳng vào bài thơ.
SÀI GÒN MỘT CHIỀU EM LỖI HẸN
Sao em nỡ tiếc anh
một chiều hò hẹn
khi chúng mình đã nguyện
cho nhau hết cả những ngày xuân?
Trời chiều nay trong xanh
lang thang ngoài phố
anh nghe lòng mình
ngập tràn thương nhớ
Đây quán nước hôm nào hai đứa
ngồi bên nhau
nhìn ly kem óng ánh mấy màu
sao em nói “Em yêu chỉ mình anh thôi” nhỉ?
Gió thổi tóc anh bay nhè nhẹ
như chiều nào đứng đợi trước công viên
Ồ kia rồi! Vóc dáng thân quen
em như nàng tiên
mỗi lần đến mang một niềm vui mới
Còn nhớ không?
Có lần anh lấn tới
cũng một buổi chiều em vẽ một lằn ranh
“Đây là biên giới!
Đừng bao giờ vượt quá nghe anh”
Đường chiều dập dìu áo đỏ áo xanh
chẳng áo nào đẹp bằng chiếc áo em thường mặc
hàng nghìn khuôn mặt
chẳng ai duyên dáng bằng người anh yêu
Tình đôi ta đẹp quá những buổi chiều
dù trời mưa hay nắng
cả Sài Gòn chiều nay im vắng
chỉ vì bên anh
thiếu buớc chân em.
Cũng may, bài thơ tình tứ ướt át nên cũng được khá nhiều tiếng vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên, ngay sau đó mọi ánh mắt của khán giả đều đổ dồn về phía anh Trác. Anh mỉm cười cầm đàn dạo nhạc và hát bản ÁO DÀI.
ÁO DÀI
Ngày nào mới mặc áo dài
Tay em run quá chẳng cài nổi khuy
Chuyện giờ kể có khác đi
Run run anh cởi hết khuy em cài
Ngày nào mới thở hương người
Em say ngây ngất rụng rời ngón tay
Chuyện giờ kể có khác đi
Tay em buông thõng mỗi khi nhớ người
Ngày nào anh cũng làm thơ
Dù em là chiếc gương mờ đã lâu
Trước khi đi ngủ, chải đầu
Để trong giấc mộng gặp nhau đàng hoàng
Ngày nào mắt ngọc xanh tình
Đêm khuya anh nhớ dịu hiền mắt em
Chuyện giờ kể có khác đi
Mi xanh mắt ngọc bút chì tô quanh
Ngày nào mới mặc áo dài
Trông gương soi bóng tự cài lấy khuy
Chuyện giờ kể có khác đi
Không đem bán áo lấy gì nuôi nhau
Hai câu cuối của bản nhạc còn có chút “hoàn cảnh xã hội”. Vào thời điểm đó cuộc sống của dân miền nam thiếu thốn, cơ cực quá nên bàn ghế tủ giường, tivi radio máy hát – tất tật mọi thứ – kể cả sách quý hiếm, quần áo đẹp (kỷ niệm) đều bị lôi ra bán để kiếm chút bỏ bụng cho đỡ đói. Có lẽ lâu lắm mới được nghe những lời hát vừa đậm chất tình, vừa dễ thương, vừa đúng với cảnh đời (chứ không phải toàn những lời tuyên truyền) nên khán giả sướng quá, đồng loạt vỗ tay thật lớn, thật dài.
Khi tiếng vỗ tay nhỏ dần thì có một giọng Bắc dõng dạc cất lên:
“Anh hát như thế là ngầm nói xấu chế độ đấy. Hát hỏng kiểu ấy ở nhà tôi là không được đâu.”
Chị chủ nhà mặt biến sắc vội chạy lại vừa kéo tay ông lão vào phía trong vừa vẫy tay ra hiệu cho mọi người giải tán. Tôi và anh Trác được mọi người nhường đường rút lui trước. Hai anh em hai chiếc xe đạp vù qua Cầu Chữ Y rồi vừa cười vừa sóng đôi đạp về nhà anh Trác ở Ngã Bảy.
Sau này mới biết ông lão là bố của chị chủ nhà. Chị biết thái độ, lập trường của bố mình đối với những lời nhạc kiểu này nên đã cho người chở ông xuống bà cô ở khu Chợ Bàn Cờ để giúp họp bàn tổ chức đám hỏi cho cháu gái (con bà cô) vào tháng sau. Không hiểu sao ông không chờ con đến đón mà đi xe ôm về sớm, làm bể chương trình văn nghệ đang hấp dẫn.
Hôm sau gặp ở chợ An Đông, chị xin lỗi tôi và nhờ chuyển lời xin lỗi đến anh Trác.
Sự kiện này làm tôi nhớ đến“câu giã từ đầy hứa hẹn” của anh sau khi cùng hát tù ca với tôi và Vũ Mạnh Dũng ở Z30D năm nào:
Khi nào “gầy được sòng” cứ hú tôi. Cái gì chứ văn nghệ thì tôi không từ chối.
Quả đúng như vậy. Với văn nghệ thì anh đã “rất chịu chơi” chứ không từ chối. Không những chỉ “rất chịu chơi” mà còn có khả năng “chơi rất đẹp” nữa.
Một Buổi Đọc Thơ Đặc Biệt
Một hôm có việc cần gặp anh Phạm Chí Thành (cũng là bạn anh Trác, ở ngã tư Hồng Thập Tự – Lê Văn Duyệt) mà không thấy anh ở nhà tôi bèn đạp xe thẳng ra nhà anh Trác ở gần đấy tìm anh. Không thấy anh Thành nhưng anh Trác đã đon đả mời tôi vào nhà.
“Sao? Chiều Thứ Bảy tuần này có bận gì không? Tôi định rủ ông đến nhà anh Sỹ chơi. Có cả Nguyễn Hữu Nhật ở đấy. Hai thi sĩ tha hồ mà đọc thơ”.
Anh đã bóng gió nói chuyện này với tôi từ lâu nhưng có lẽ tuần này mới tiện dịp. Tôi trả lời:
“Hôm ấy định ra Chợ Lớn nhận ít hàng cho bà chị, nhưng không gấp. Có chuyện vui chơi thì để hôm sau cũng đưọc”.
Tôi đến nhà anh Trác khoảng1 giờ trưa Thứ Bảy. Thư thả uống trà một lúc rồi hai anh em hai chiếc xe đạp ra đường Cộng Hòa (Nguyễn Văn Cừ), qua Đại Học Khoa Học một đoạn rồi rẽ phải. Nhà anh Sỹ ở trong một con hẻm rộng trên đường này, đường An Dương Vương.
Đến nơi, một người đứng tuổi, dáng vẻ trí thức, mặt phúc hậu, ra cửa đón vào. Trong nhà đã có một người nữa đứng cạnh bàn. Anh Trác lịch thiệp giới thiệu và mọi người vui vẻ bắt tay nhau. Người đứng tuổi là nhà văn Doãn Quốc Sỹ (sinh năm 1923), người kia trẻ hơn là nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật (1942), chồng nhà văn Nguyễn Thị Vinh (em gái Nguyễn Tường Tam và là thành viên trẻ tuổi nhất của Tự Lực Văn Đoàn). Bên cạnh anh Trác (1936), tôi trẻ nhất (1952) – năm đó mới 32 cái xuân xanh. Anh Sỹ mời mọi người ngồi và rót trà tiếp đãi rất lịch sự. Sau vài phút thăm hỏi xã giao là phần diễn đọc thơ. Anh Nhật được coi là người nhà (thơ của anh đã rất quen thuộc với nhóm văn nghệ sĩ quen biết anh Sỹ) nên anh Sỹ mời anh mở đầu chương trình. Anh Nhật nhắp một hớp trà rồi bắt đầu đọc bài thơ HOA CÚC VÀNG
HOA CÚC VÀNG
Chỗ anh đứng chờ em ra
Bây giờ thiên hạ trồng hoa cúc vàng
Mỗi lần có dịp đi ngang
Nhớ em anh tưởng áo vàng lụa bay
Nghĩ hoài sống mũi cay cay
Mấy năm chẳng được một ngày gần nhau
Hạnh phúc thường hay qua mau
Vắng nhau thì thấy ở đâu cũng buồn
Tự dưng thương ghế thương bàn
Nơi em đã để cho làn hương rơi
Anh muốn kêu lên em ơi
Nhớ gì nhớ đến chết người như không
Tay vò hoa cúc nát lòng
Vàng phai hay ý chờ mong nhạt dần.
(Bài thơ này đã được anh Đinh Văn Trang phổ nhạc tại trại Thanh Cẩm vào năm 1979) (1)
Đây là tâm tình của anh trong những tháng năm cải tạo xa cách vợ hiền. Anh Trác đã kể tôi nghe về chuyện tình của anh Nhật với chị Vinh – chị hơn anh 18 tuổi. Ở thời điểm ấy – Nàng ra đời trước Chàng từng ấy năm – kể cũng hơi khác thường.
Nhưng phải công nhận tình yêu và nỗi nhớ thương của anh với người tình đậm đà, sâu sắc, lãng mạn và rất Thơ – nghe rất khoái. Chờ một lát cho chất tình, chất lãng mạn, chất Thơ thấm vào hồn khán giả, anh Nhật nhắp một hớp trà nữa rồi đọc tiếp 4 câu thơ:
Một ngày không thấy mặt nhau
Đã như phát ốm phát đau một ngày
Xa nhau đã mấy năm nay
Mình không bỏ mạng là may lắm rồi
Như đã nói ở trên, chị hơn anh 18 tuổi nên nghe đoạn thơ rất sâu sắc, đậm tính lãng mạn đó, anh Sỹ, anhTrác và cả tôi đều cười thích thú.
Đến đây anh Sỹ nhìn tôi thân thiện nói:
Nghe anh Trác kể thơ anh Nhì được anh em trong trại cải tạo rất ưa thích. Nhân dịp này cho chúng tôi nghe vài bài nhé.
Tôi cũng cầm ly nhấp một hớp trà thấm giọng rồi tự giới thiệu và đọc bài thơ HẸN MỘT NGÀY MAI. Tôi viết bài này ở phân trại E năm 1981, lúc mới bước qua tuổi 30.
HẸN MỘT NGÀY MAI
Ai chẳng muốn có một mái nhà êm ấm
khi đã bước qua tuổi ba mươi
một cô vợ hiền lành duyên dáng
một hai đứa con kháu khỉnh tươi cười
Bắt tay vào xây dựng tương lai
trong muôn nghìn việc chung của quê hương dân tộc
ai chẳng có một đôi khoảnh khắc
nghĩ về những riêng tư
Tôi còn bà mẹ già
như ngọn đèn sắp tắt
mong đứa con trai từng giờ, từng phút
sớm trở về nhà lấy vợ, đẻ con
Mang trong lòng một hoài bão sắt son
“Bồi đắp vun trồng những mầm non nước Việt”
tôi cũng muốn mai đây trong cánh rừng tươi đẹp
có một, đôi cây mang vóc dáng của mình
ngạo nghễ giữa trời xanh
Nhưng hôm nay nghĩ đến chuyện gia đình
tôi như chạm phải vết thương nhức nhối
đất nước vẫn chìm trong đêm tối
lũ quỷ đỏ dã man vẫn đày đọa muôn dân
đường đấu tranh sẽ còn lắm gian nan
mà sự nghiệp chỉ đôi bàntay trắng
Tôi biết mình chưa thể chu toàn bổn phận
làm chồng, làm cha khi chí vẫn tang bồng
vẫn chưa chồn chân lội suối băng rừng
vẫn đôi tay muốn ghì chặt súng
trên đầu tóc vẫn đang dựng đứng
mắt vẫn in rõ mặt quân thù
Và trái tim
vẫn hằng đêm
nhói đau trong ngực
khi xa xa vọng về tiếng khóc
của những bà mẹ già, những đứa trẻ thơ
Nên dù có lời hứa đợi chờ
của cô láng giềng tôi yêu tha thiết
dù mẹ tôi khao khát
mong cô con dâu, mong đứa cháu gọi bà
tôi vẫn lắc đầu và mỉm cười vu vơ
khi có người hỏi
“Sao chưa lấy vợ?”
Tôi mơ đến một khoảng trời rộng mở
có những đoàn quân
tiến về Sài Gòn
đòi lại quê hương đã mất
và hòa trong ào ào tiếng thét
“Tiến lên! Hãy tiến lên!”
có bóng tôi lao vút như tên.
Vâng. Đó là tâm sự của tôi– một thanh niên sắp “tam thập nhi lập” nhưng hoàn cảnh trớ trêu, vẫn còn nằm trong trại cải tạo, chưa được ra đời thực hiện những ước mơ – xây dựng gia đình, tạo lập tương lai sự nghiệp.
Tứ thơ “nhất khí liền mạch”, âm điệu chảy thành dòng làm chỗ dựa cho cảm xúc cùng những mảnh tâm sự bám theo đi vào tâm hồn những người yêu thơ. Anh Sỹ đang gật gù như muốn nhờ năng lượng từ sự chuyển động của cái đầu đưa cảm xúc thấm sâu vào tâm hồn.
Không khí lặng đi một lúclâu.
Rồi anh Sỹ ngẩng đầu lên nhìn tôi nhẹ nhàng “ra lệnh”:
Một bài nữa đi anh Nhì.
Tôi dùng vài phút kể lể sự tình:
Sau khi bị đánh đập dập xương sống, bị cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế Trung Ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự.
Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: Giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý v.v. Lúc ấy ở bệnh xá có khoảng 30 bệnh nhân, toàn là tù hình sự. Chỉ mình tôi “lạc loài”.
Rồi tôi bắt đầu đọc bài thơ TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY
Tôi đến đây
trong một lần đi trốn
khi đang trong cuộc một trò chơi lớn
trò chơi đấu tranh
Nhìn quanh
tôi thấy toàn thú dữ
mắt tròn xoe đổ lửa
uống máu ăn thịt lẫn nhau
trong khi bên ngoài những lớp rào và những hào sâu
bầy quỷ sứ đứng canh ngả nghiêng cười khoái trá
Ở đây
một nắm rau dại một con sâu, con dế
lắm khi tàn tạ thân xác một con người
một mẩu tàn thuốc rơi
có thể làm máu đổ
Tử thần đang mừng rỡ
bước từng bước đến gần
những con người khốn khổ
họ không có gì chống đỡ
nên chỉ biết bán rẻ nhân cách của mình
biến thành những con vật đê hèn
ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi
May mắn thay
tôi đã gặp ở đây
ân tình đong thật đầy
của những người bạn mới
(giữa rừng cỏ dại quanh bờ suối
lác đác một hai khóm trúcđào)
Tôi quên sao được hương vị ngọt ngào
của cành hoa các anh trao giữa muôn nghìn cay đắng
đàng sau những vệt máu, những giọt mồ hôi, những tia nhìn thù hận
là màu xanh ước mơ
những nét nhạc, những vần thơ
khung trời quê hương, biển tình yêu và cuồn cuộn dâng nhựa sống
tâm hồn tôi như bay cao giữa trời gió lộng
dù xác thân vẫn trĩu nặng gông xiềng
Tôi cũng gặp những đứa em
còn chút dáng người giữa bầy dã thú
đói thắt ruột và roi quất trên đầu, trên cổ
vẫn chẳng nỡ ăn thịt đồng loại của mình (ý nói không làm Ăng – ten)
tôi ôm các em vào lòng
thủ thỉ bên tai những lời thân ái
để các em quen dần tiếng nói
của loài người đã quên mất từ lâu
Tôi đã bị đẩy xuống tận đáy vực sâu
dù đường còn rất xa, và rất nhiều khó nhọc
vẫn cố trèo lên miệng vực
dù bọn quỷ sứ muốn biến tôi thành súc vật
trái tim tôi vẫn ăm ắp tình người
vẫn quay quắt nhớ người yêu
xa tít một phương trời
và vẫn niềm tin
ở một ngày mai.
Viết cuối năm 1982 ở Bệnh Xá Phân Trại B
Tôi cũng giải thích một chi tiết (coi như một chú thích) cho 2 câu thơ chữ nghiêng màu đỏ để có sự thông cảm của khán giả:
Một ngày Chủ Nhật, được nghỉ lao động, có 2 em tù hình sự đến “cà kê dê ngỗng” kể chuyện tôi nghe. Số là cả 2 em đều ghiền thuốc nặng, lúc đang cuốc đất, thấy tên công an võ trang đứng gần đấy vứt cái tàn thuốc mới hút xong, cùng xông tới giành nhau. Đứa bị dộng báng súng lên ngực, chiều tối về phòng mới ói máu; đứa bị chân giầy đạp lên mặt, máu răng, máu miệng bê bết “giữa trận tiền”. Một em vừa cười vừa nói với tôi: “Biết là ăn đòn nhưng ghiền quá chịu không nổi anh ơi!”
Đến đây anh Trác chen vào lên tếng mời anh Nhật đọc thơ tình để thay đổi không khí. Anh Nhật là tay đọc thơ chuyên nghiệp nên dù đã sẵn sàng vẫn chờ thêm khoảng một phút nữa để thu hút sự chú ý của khán giả. Rồi anh không giới thiệu mà, thật chậm rãi, đi thẳng vào bài thơ:
Ngày nào mới mặc áo dài
Tay em run quá chẳng cài nổi khuy
Chuyện giờ kể có khác đi
Run run anh cởi hết khuy em cài
……………….
À thì ra đây là bài thơ ÁO DÀI được phổ nhạc mà anh Trác đã hát trong “buổi văn nghệ dở dang” ở Quận 8 hôm nào. Phải công nhận tình yêu của anh với người tình tình – hơn anh đến 18 tuổi – đậm đà, sâu sắc, lãng mạn và rất Thơ – càng nghe càng thấy khoái.
Sau đó là giờ giải lao.
Chị con dâu của nhà văn Doãn Quốc Sỹ đem chè đậu xanh lên mời khách. Đến chỗ tôi chị đặt chén chè lên bàn rồi nhỏ nhẹ nói: “Cháu mời chú ăn chè”. Tôi giật nẩy mình. (Chị ít ra cũng hơn tôi vài tuổi). Tôi nhìn anh Sỹ đỏ mặt, ngượng ngùng. Nhưng nhà văn đáng tuổi cha chú tôi đã lịch thiệp lên tiếng:
Anh Nhì à! Anh Trác là bạn tôi. Anh là bạn anh Trác tức cũng là bạn tôi. Hơn nữa, chúng ta là nhà văn, nhà thơ – mà nhà văn, nhà thơ thì không có tuổi. Cháu xưng hô với anh như vậy là đúng đấy. Anh đừng ngại. (2)
Tôi bỗng nghĩ đến câu “Trong văn chương thì ‘gừng càng già càng cay’, nhưng cũng có khi ‘tài không đợi tuổi’”. Như vậy câu nói của anh Sỹ cũng có phần đúng của nó. Nhưng rồi cũng có câu “Hãy kính trọng người già khi bạn còn trẻ” rất hợp với truyền thống, lễ giáo, cách xưng hô, giao tiếp của người Việt Nam – theo tôi, cũng không nên coi thường. Bởi vậy cách xưng hô của chị con dâu có làm tôi áy náy đôi chút.
Tuy nhiên, “nhập gia tùy tục”nên tôi không có ý kiến gì thêm.
Ăn chè xong, chị châm thêm một bình trà mới và chương trình đọc thơ lại tiếp tục. Tôi và anh Nhật cứ xen kẽ nhau trổ tài. Tôi đọc 2 bài (HOA DẠI và VÌ THẾ TÔI RA ĐI), anh Nhật đọc tiếp 3 bài nữa. Khi tôi đọc xong bài VÌ THẾ TÔi RA ĐI thì ba vị khán giả yêu thơ lim dim mắt, gật gù như muốn thử tìm xem có chỗ nào có thể cảm thông với nỗi niềm tâm sự hơi lạ đời đó không. Chắc là cũng có đôi chút nên ngồi uống trà một lát, anh Sỹ lại nhìn tôi có vẻ thúc giục.
Anh Trác khuyến khích:
“Cứ chơi thoải mái đi ông Nhì”.
Và tôi đọc thêm bài thơ TẬP VẼ.
Bài này tôi cũng viết lúc đang nằm ở bệnh xá phân trại B. Một em tù hình sự có học lại có hoa tay, vẽ đẹp nên được ưu tiên cho về đội nhà bếp để thỉnh thoảng vẽ cờ, hoa, khẩu hiệu trang trí cho phân trại. Em mến tôi và lúc bớt việc lại đến bệnh xá đề nghị tôi hát mấy bản nhạc vàng mà em ưa thích.
Một hôm em tâm sự là rất buồn, rất chán khi bị bắt buộc phải vẽ những hình, khẩu hiệu mà em “không có cảm tình”. Bài thơ ra đời trong khung cảnh ấy.
TẬP VẼ
Thuở bé thầy giáo thường khen em
có hoa tay, vẽ nhanh, vẽ đẹp
chỉ vài nét
là có hình người muông thú, cỏ hoa
Thế mà mấy năm qua
em luôn bị điểm 2 môn vẽ
chăm chỉ, miệt mài tính em vẫn thế
chứ có đâu biếng nhác, ươn hèn
Nhớ hôm vẽ cờ búa liềm
em đã ngắm kỹ từng đường cong nét thẳng
em cũng ướm thử từng đoạn dài đoạn ngắn
nhưng đến hết giờ
em vẽ cũng vẫn … sai
Đưa lưng cho thầy quất mấy roi
em ngỡ liềm cứa thịt da em rách
thước kẻ thầy đánh vào tay
em tưởng búa đập xương em dập nát
Một hôm khác
lớp em vẽ hình Lê- Nin
em hết nhìn thẳng lại nhìn nghiêng
để ý từ chòm râu, sóng mũi
Nhưng lạ chưa!
Lê – Nin của em vào cuối buổi
trông cứ như đang múa vuốt, nhe nanh
xem bài em thầy giáo giật mình
đánh em ngã lăn giữa lớp
Hôm vẽ Bác Hồ lòng em hồi hộp
thầy đứng bên em chẳng phút nào rời
thầy nhắc em Bác nhân đứcyêu người
thầy sánh Bác với vua Hùng dựng nước
Em cố vẽ theo lời thầy nhưng không sao vẽ được
tay chén chè tàu tay ly rượu Vốt- Ka
Bác Hồ của em trông gian ác, điêu ngoa
em lại bị thêm trận đòn tím bầm thân thể
Bản đồ nước Việt Nam
một hôm em đang vẽ
này biển, này sông, này rừng núi, ruộng vườn
này những thành phố quê hương
em đặt hết tâm hồn vào trang giấy nhỏ
Thầy đứng sau lung cầm cây cọ đỏ
bôi kín tấm bản đồ tổ quốcem yêu
đỏ biển, đỏ sông, đỏ những đê điều
đỏ phố, đỏ phường
đỏ hết cả núi rừng, nương rẫy
Em bỏ ngôi trường làng ra đi từ dạo ấy
lang thang như một khách giang hồ
Ôi! Nhớ làm sao những lần tập vẽ ngày xưa
Ồ! Giá trường em giờ có thầy giáo mới
Em sẽ chạy về ngay
không để lỡ một ngày, một buổi
ngồi vào hàng ghế ngày xưa
thầy đang dậy những câu hát mẹ ru
còn em háo hức chờ đến giờ tập vẽ.
Lúc viết bài thơ này, dù còn đang bại liệt trong trại cải tạo, tôi đã mơ đến chuyện ra đi chứ không như ngày 29 tháng tư năm 1975:
Khi đoàn tàu chở đơn vị tôi
chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải
thương cha mẹ già, đàn em dại
tôi bước lên bờ ở lại quê hương.
(Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm ĐứcNhì)
Bởi thông tin truyền vào qua thăm nuôi cho biết “sĩ quan cải tạo” trở về nếu không nhanh chóng tìm đường ra đi thì ở lại sẽ bị tước đoạt hết mọi cơ hội kiếm sống, sẽ chỉ là gánh nặng cho gia đình mà thôi.
Và đây cũng là bài cuối của chương trình. Khác mấy bài trước, bài này được 3 khán giả đón nhận nồng nhiệt.
Trong gần 3 tiếng đồng hồ thả hồn vào thơ, anh Nhật đọc 7 bài. Tôi đọc 5 bài. Thỉnh thoảng cũng có những “lời bình ngắn” rất uyên bác, điệu nghệ của anh Sỹ và anh Trác. Vì đây là bài viết về anhTrác nên tôi chỉ đưa vào 3 bài thơ của anh Nhật và 3 bài của tôi để độc giả có thể mường tượng ra phần nào khung cảnh, không khí của buổi đọc thơ. Mục đích chính của đoạn này là làm nổi bật vai trò “đạo diễn ngầm” của anh Trác.
Độc giả có thể đọc cả 5 bài thơ tôi đọc tại nhà anh Sỹ theo link sau đây:
Còn 4 bài khác nữa của anh Nhật, rất tiếc lâu quá, tôi đã quên.
Anh Nhật đọc thơ rất có duyên. Anh để ý “luyến láy” từng chữ, từng câu. Anh đọc thơ của chính mình, lại thuộc lòng, nên dễ dàng lột tả được những chỗ ý tứ sâu sắc, “chữ tình” đằm thắm, thiết tha. Cái thú khi nghe thơ anh Nhật là không phải “ngẫm” cũng có thể hiểu rồi cảm được ý tứ sâu sắc, cảm xúc dạt dào đằm thắm được gói ghém khéo léo trong những câu thơ có ngôn ngữ, hình tượng tỏa ra nét đẹp văn chương óng mượt.
Thơ tôi dễ đọc hơn. Bài thơ dài, nhất khí liền mạch và tôi đã thuộc như cháo nên khi đọc cứ thả hồn theo dòng chảy của tứ thơ, dòng cảm xúc và nhờ dòng âm diệu dẫn đưa về Bến Đỗ.
Một người đọc thơ, 3 người còn lại cũng lặng yên thả hồn vào từng chữ, từng câu. Phòng khách thì rộng rãi, thoáng mát nhưng cũng hoàn toàn im ắng như muốn cùng hòa điệu với những người thưởng thức thơ ca toàn tâm, toàn ý.
Trước khi chia tay anh Sỹ dặn tôi:
“Anh Nhì nhớ cho tôi mấy bài thơ để gởi cho các anh ấy ở bên kia nhé.”
Được một người như nhà văn Doãn Quốc Sỹ quý trọng, yêu mến thơ của mình và bộc lộ một cách tế nhị như thế thật là một điều vinh hạnh. Điều đó đã giúp tôi tự tin hơn, thoải mái hơn khi phóng bút viết những bài thơ sau này.
Ra về tôi không nói gì thêm với anh Trác nhưng lòng thầm cám ơn anh đã có công “gầy sòng” rồi cùng anh Sỹ “đạo diễn” để tôi có một buổi đọc thơ đáng nhớ trong đời.
Tôi chưa kịp “trao thơ” thì anh Sỹ, anh Trác và một số nhà văn, nhà thơ khác đã bị bắt trong vụ NhữngTên Biệt Kích Cầm Bút. (Chuyển “thơ văn chống đối chế độ” từ trong nước ra hải ngoại) (3)
Gặp Lại Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ
Giữa tháng 2 năm 2003 anh Trác gọi điện thoại rủ tôi đi dự văn nghệ mừng Thượng Thọ 80 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Buổi lễ được tổ chức tại một hội trường lớn ở thành phố Houston. Anh Trác và tôi chọn hai chỗ sát lối đi ở bên trái khán đài, anh Sỹ cùng gia đình ngồi ở phía bên kia lối đi. Chương trình văn nghệ bên cạnh “cây nhà lá vườn” tại Houston còn có vài ca sĩ từ xa đến chung vui. Người hát nhạc vàng trước 75, người hát nhạc mới sáng tác tại hải ngoại. Cũng có người đọc bài thơ “Mừng Bác 80” để chúc thọ nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Không khí thật rộn ràng, vui vẻ. Được ngày nghỉ lên khu trung tâm thành phố chơi nên tôi thả hồn vào lời ca tiếng hát.
Bỗng MC cao giọng: “Để thay đổi không khí chúng tôi xin giới thiệu anh Phạm Đức Nhì. Anh sẽ đọc một bài thơ do chính anh sáng tác. Xin mời nhà thơ Phạm Đức Nhì”.
Hơi bị bất ngờ, tôi đứng dậy nhìn anh Trác thì thấy anh cười nói: “Ông cứ lên cho bà con thưởng thức một bài cho vui.” Thì ra anh đã “gài độ” trước.
Năm 1996, sau khi dự lễ khai mạc kỳ đài tại Houston, nhìn lá cờ vàng 3 sọc đỏ phất phới bay trong gió, cảm xúc dâng trào, tôi đã viết bài thơ LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA. Thời gian đó chưa có Facebook, nhưng chỉ qua Emails bài thơ đã được loan truyền rộng rãi trên các diễn đàn. Lễ mừng thượng thọ nhà văn Doãn Quốc Sỹ – một người yêu tự do, đã bị chính quyền Cộng Sản bỏ tù – mà đọc bài thơ ấy thì rất hợp cảnh hợp tình.
Nhưng đứng trên khán đài nhìn anh Sỹ, rồi lại nhìn anh Trác ở bên kia lối đi giữa hội trường, kỷ niệm buổi đọc thơ 19 năm trước tại nhà anh Sỹ lại hiện về. Qua những “lời bình ngắn” ý nhị hôm ấy, tôi biết hai anh – đặc biệt là anh Sỹ – có lòng ưu ái với bài thơ TẬP VẼ của tôi. Thế là sau một chút lưỡng lự tôi đã quyết định đọc “bài thơ kỷ niệm” ấy.
Bài thơ được mọi người nhiệt tình tán thưởng, tiếng vỗ tay lớn và kéo dài rất lâu. Xuống khán đài về chỗ ngồi, lúc qua chỗ anh Sỹ, anh đứng lên kéo tôi lại gần rồi ghé sát tai tôi nói nhỏ:
“Tôi vẫn nhớ mấy bài thơ anh đọc năm nào tại nhà tôi. Riêng bài Tập Vẽ bây giờ nghe lại càng thấy thấm thía”.
Tôi chỉ biết đứng yên, miệng lí nhí “Cám ơn anh” nhưng trong đầu lại hiện ra khuôn mặt khả ái và nụ cười ý nhị của ca sĩ Duy Trác.
Tiệc Giã Từ Đời Ca Hát
Một hôm chị Trác gọi điện thoại mời vợ chồng tôi vào chiều cuối tuần (lâu quá tôi đã quên ngày tháng) đến dự buổi tiệc họp mặt gia đình và thân hữu để anh “rửa tay gác kiếm” – giã từ đời ca hát. Buổi tiệc khoảng hơn trăm người tại một nhà hàng (hôm đó không tiếp khách vãng lai) nên không khí gần gũi, thân tình và ấm cúng.
Trong phần văn nghệ tôi có dịp nghe lại bản nhạc Lời Nguyện Trong Tù (đã được đổi tên thành Giáng Sinh Trong Ngục Tù) do con gái của anh Trác hát. Tôi để ý thấy ở đoạn:
“Xin quét hết lũ người sống hận thù không óc không tim. Xin tiếng hát nụ cười cho mọi người được sống bình yên”
nhóm chữ “Xin quét hết lũ người” đã được đổi thành “Xin cứu vớt những người”.
Hai chữ “sân hận” màu đỏ máu lửa ngày xưa đã được buông bỏ. Thay vào đó là hai chữ “nhân ái” màu xanh hiền hòa mát dịu. Tôi bỗng thấy lòng thật vui. Và mừng cho sự đổi thay trong tâm hồn anh Trác. Ở tuổi anh, như thế sẽ nhẹ lòng hơn, thanh thản hơn để sống những năm tháng còn lại của cuộc đời.
Tôi cũng may mắn, có“duyên” – gặp được “cao nhân đạt đạo”, giúp cởi bỏ hận thù trong tâm khảm – đã bắt tay kết bạn với khá nhiều “kẻ thù xưa” trong chốn văn chương và cả ngoài đời thường. Lại gặp cái “nghiệp” bị Nàng Thơ quyến rũ, mê hoặc suốt mấy chục năm trời đến mức đã “dại dột” bước vào lãnh địa Phê Bình – “đưa ra lời khen, tiếng chê, cái này ‘đường mới’ cái kia ‘lối mòn’, bài thơ này đúng hướng, bài thơ kia lạc đường”. Bởi vậy, nếu còn khư khư ôm giữ lập trường, phân định “địch ta” thì làm sao có được công tâm trong việc nhận định giá trị nghệ thuật của một thi phẩm.
Vào buổi họp mặt để anh “giã từ đời ca hát”, tôi nhận ra anh với tôi còn có thêm một điểm tương đồng nữa: Đó là hai chữ “nhân ái” hiền hòa màu xanh mát dịu ẩn hiện đâu đó trên mặt của anh. Còn tôi, sau nhiều năm cởi bỏ được hai chữ “hận thù”, thỉnh thoảng soi gương thấy mặt mình cũng “hiền” hơn xưa khá nhiều. Có điều hai chữ “nhân ái” trên mặt anh tự nhiên hơn, rõ nét hơn, còn của tôi, do dính líu chút “tư ý tư dục” trong chuyện thơ văn nên mờ nhạt hơn.
Kết Luận
Tôi với anh Khuất Duy Trác, tức ca sĩ Duy Trác, tuổi đời có đến hơn 16 năm cách biệt. Học vấn, kiến thức, địa vị trong xã hội tôi kém anh rất xa. Cung cách ứng xử văn hóa trong giao tiếp, so với anh, tôi thấy mình còn quá “bình dân”. Xưng hô thì anh gọi tôi là Ông, xưng Tôi, tôi gọi anh là Anh, xưng Tôi – cũng không được gần gũi lắm.
Chúng tôi gặp nhau trong hoàn cảnh tội tù khắc nghiệt, giống nhau ở lòng đam mê âm nhạc, thi ca. Nhờ “Duyên” đã có cơ hội “cùng nhau vui chơi” để lại vài kỷ niệm – những kỷ niệm in đậm tính cách, nhân cách của anh – một Nghệ Sĩ Chân Chính.
League City tháng 11/ 2023
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1/ https://www.diendantheky.net/
2/ Sau này nhờ tâm hồn cởi mở, phong cách phóng khoáng trong giao tiếp với bè bạn văn chương của anh Sỹ và đặc biệt là câu “Chúng ta là nhà văn, nhà thơ – mà nhà văn, nhà thơ thì không có tuổi” tôi đã có cái nhìn tự do hơn, khách quan hơn đối với các nhà văn, nhà thơ và tác phẩm của họ.
Tôi đã tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu để tạo cho mình một nền tảng kiến thức lý luận văn học và khi nhận xét, đánh giá một bài thơ, một tác phẩm văn chương tôi chỉ dựa trên cái nền tảng kiến thức đó.
Kết quả là tôi đã bỏ được một “thói xấu” trong phê bình: Coi trọng đến mức tôn thờ tác phẩm của các “cây cổ thụ văn chương” – không dám “đụng đến” những khuyết điểm, dù sờ sờ trước mắt, của họ – và ngược lại, coi thường đến mức bất công tác phẩm của những văn thi sĩ còn non trẻ.
3/ Còn tôi mấy tháng sau cũng bị bắt ở Bến Lức, Long An vì tội vượt biên. Trong khi bị “tập trung cải tạo” ở Nhơn Hoà Lập thì được công an thành phố HCM đến “đón” về traị giam Phan Đăng Lưu, Gia Định. Lý do: Trong thời gian ở A20, một bạn tù hỏi xin và tôi có chép bài thơ Từ Ngục Tù Cộng Sản cho anh đem về. Ít lâu sau anh vượt biên bị bắt cùng với bài thơ và bị xử 12 năm tù.
Anh không khai gì để tổn hại đến tôi, nhưng một thời gian sau nữa có ăng – ten khai báo và công an truy xét nét chữ đã tìm ra tôi. Mấy cán bộ công an bắt tôi phân tích và “bình” bài thơ của mình suốt 6 tháng trời. Cứ đến chỗ đụng chạm đến chế độ tôi lại bị hạch sách đủ điều. Có lần còn bị công an võ trang len lén đến tát vào mặt, đấm vào lưng vì đã xúc phạm đến Bác Hồ.
Vũ Văn Ánh, người sáng lập và chủ biên tờ Hợp Đoàn, sau khi kết cung đã “lên đài” nói với tôi (hét to trực tiếp từ xà lim này qua xà lim kia):
“Chắc không đến nỗi ‘dựa cột’ (tử hình) nhưTạ Vinh đâu; nhưng lịch thì chở cả (xe) GMC cũng không hết”.
Tuy nhiên, khi ông Nguyễn Văn Linh lên nắm quyền với chủ trương cởi mở chính trị, những người liên quan đến vụ Hợp Đoàn ở A20, vụ của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, ca sĩ Duy Trác … và cả tôi đều được thả về. Tôi về sau các anh vài tháng.