NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN ĐÔNG
Tình người Ông Tạ ngoại đạo với mùa sao sángNS Nguyễn Văn Đông
CÙ MAI CÔNG
“Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời…”
Năm 1970, cách đây nửa thế kỷ, có đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau được hai năm gom góp tiền mua ngôi nhà nhỏ gần góc đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) – đại lộ Cách Mạng 1-11 (nay là Nguyễn Văn Trỗi). Đây là vùng ngoại ô Ông Tạ. Khu vực này lúc đó còn rất vắng vẻ, nhưng gần nơi ông làm việc là trụ sở Bộ Tổng tham mưu VNCH.
Ông đạo Phật, con trai duy nhất một gia đình điền chủ lớn ở xã biên giới Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, Tây Ninh. Vùng này khô cằn nhưng mía ngọt nổi tiếng. Liệu những vườn mía quê xưa có khiến ông thích uống nước mía hơn các loại nước uống khác? Ông là nhạc sĩ Chiều mưa biên giới Nguyễn Văn Đông. Với tôi, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là một trong ba nhạc sĩ lớn nhất miền Nam trước 1975 cùng Phạm Duy, Trịnh Công Sơn. Nhạc sĩ Phạm Duy viết nhạc đa dạng, gần gũi mọi lứa tuổi; một tài năng rất lớn với sinh hoạt sôi động. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết nhạc với những hợp âm đơn giản nhưng ca từ sâu sắc, đi vào thân phận con người.
Trong khi đó, nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có một vẻ khác biệt rất rõ: sang trọng một cách gần gũi, sâu lắng và đẫm yêu thương. Ông cũng sống với một nhân cách sống của kẻ sĩ miền Đông Nam bộ thời tao loạn: hiền lành nhưng cứng cỏi giữ tiết tháo, không thay đổi cả trong lúc khó khăn đến tận cùng. Ông theo binh nghiệp từ năm 14 tuổi (1946) ở Trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu và chức vụ cuối cùng trong Quân lực VNCH là đại tá chánh văn phòng Tổng tham mưu phó Quân lực VNCH; trải qua hai đời tổng tham mưu phó là trung tướng Nguyễn Văn Là (1968-1974) và trung tướng Nguyễn Văn Mạnh (1974-1975). Tổng Tham mưu trưởng là đại tướng Cao Văn Viên. Hồi ở trường Thiếu sinh quân, ông học nhạc với các giảng viên của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp; thành viên Ban Quân nhạc Thiếu sinh quân; sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ và 16 tuổi đã có những sáng tác đầu tay: Thiếu sinh quân hành khúc, Tạm biệt mùa hè… Đó là lý do tại sao đám tang ông có nhiều cựu Thiếu sinh quân VNCH đưa tiễn.
Nhà ông trên đường Nguyễn Minh Chiếu, đi một chút là ra ngã tư Thoại Ngọc Hầu. Tên con đường này cũng là tên một chiến dịch quân sự năm 1956 của Quân đội VNCH (từ 1965, đổi thành Quân lực VNCH) ở vùng Đồng Tháp Mười mà ông tham gia; tướng VNCH Dương Văn Minh làm tư lệnh. Còn nhạc sĩ, khi ấy 24 tuổi nhưng đã là trưởng Phòng 3 – Tác chiến của Phân khu Đồng Tháp Mười VNCH.
Trước 1975, tên tuổi của ông lừng lẫy một cách đằm thắm – như tính cách của ông, không phải bằng binh nghiệp (dù tướng Dương Văn Minh từng bắt tay ngưỡng mộ ông trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu) mà là những tác phẩm âm nhạc: Chiều mưa biên giới, Vạn dặm sơn khê, Phiên gác đêm xuân, Bến đò biên giới, Về mái nhà xưa, Niềm đau dĩ vãng, Hải ngoại thương ca, Khi đã yêu… Ngoài Nguyễn Văn Đông, ông còn ký tên Phượng Linh, Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử. Tính cách nhẹ nhàng, yêu quê hương da diết của nhạc sĩ cũng khiến ông không chỉ viết tân nhạc mà còn cả cổ nhạc: viết nhạc, đạo diễn trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước 1975 như: Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng…
Thập niên 1950, ở tuổi đôi mươi, ông là Trưởng Ban (văn nghệ) Vì Dân; 26 tuổi (1958), ông là Trưởng Ban (ca nhạc) Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn. Ông từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia do đích thân bà Trần Lệ Xuân, phu nhân cố vấn Ngô Đình Nhu trao. Tất cả đều là những giai điệu êm ả, nhẹ nhàng – như tính cách của ông. Khi hành quân ở Đồng Tháp, lính tráng thời chiến thường đi săn bắn ở vùng biên giới lúc đó còn hoang sơ, ông thú thiệt “săn một con vật về cũng thương, ăn không được”. Cô cháu ở cùng nhà bảo: “Chưa bao giờ thấy ông la ai một tiếng”. Theo binh nghiệp cả đời nhưng nhạc của ông có vẻ không hứng thú với chiến tranh, thậm chí tác phẩm nổi tiếng Chiều mưa biên giới (cùng với Mấy dặm sơn khê của ông và 15 ca khúc khác) có lúc bị Bộ Thông tin của chính quyền Sài Gòn yêu cầu Đài phát thanh Sài Gòn không thu âm và phổ biến vì ca từ bắt đầu thể hiện sự hoang mang của một anh lính: “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu – Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu…” (những năm 1955-1956, ông đóng quân ở khu biên giới Đồng Tháp Mười).
Nhạc phẩm này thoạt đầu do ca sĩ Trần Văn Trạch (em nhạc sĩ Trần Văn Khê) hát với giọng miền Tây, cụ thể là giọng Mỹ Tho rặt; s/x, ch/tr… rành mạch. Sau được thể hiện với tiếng hát Hà Thanh, người Huế nhưng hát với giọng Hà Nội xưa – trong trẻo, tròn vành rõ tiếng rất sang trọng chứ không uốn éo, ma mị như một vài ca sĩ Hà Nội hiện nay. Khác hoàn toàn giọng, nhưng cả hai ca sĩ đều hát với giọng ca rung động lòng người, khi ấy và cả hôm nay. Bắc-Trung-Nam đủ mặt trong thể hiện tác phẩm của ông, đều hay.
Quê ông ở Bến Cầu, bên này sông Vàm Cỏ Đông. Bên kia, cách ít cây số là xóm đạo Tha La nổi tiếng, cạnh rạch Vàm Trảng, bao phen binh lửa. Chắc ông cũng từng ghé qua xóm đạo này? Nhưng ông sanh ngày 15-3-1932 và học ở quận Nhứt, Sài Gòn.
Ngôi nhà mới của đôi vợ chồng trẻ rất gần nhà thờ Ba Chuông (nhà thờ, giáo xứ Đa Minh), chỉ vài bước chân là tới. Ông đã tới đây bao nhiêu lần? Và hơn thế, hẳn không ít lần ông đã nghe nhạc đạo, xem lễ nhà thờ và nghe Thánh ca nơi đây? Nếu không, làm sao ông có thể viết những nhạc phẩm mà ca từ, hình ảnh rất quen, rất thân với người Công giáo: Tình người ngoại đạo, Mùa sao sáng, Màu xanh Noel, Bóng nhỏ giáo đường, Hồi chuông kỷ niệm (đồng tác giả với Song Ngọc)…
Viết lời Việt cho một số bản nhạc cổ điển, nhạc ngoại: Ave Maria (nhạc Franz Schubert), Đêm thánh huy hoàng (nguyên tác Silent night” – khác với bài Đêm thánh vô cùng do Hùng Lân, cũng một cư dân Ông Tạ trên đường Thánh Mẫu viết lời Việt), Hồi chuông nửa đêm (nguyên tác Jingle Bells của James Lord Pierpont)… Có thể nói xuân và đạo là hai nội dung âm nhạc thường xuyên có mặt trong nhạc Nguyễn Văn Đông. Nhưng nếu nhạc xuân của ông luôn là nỗi buồn mất mát, có lúc tuyệt vọng thì nhạc đạo của của ông lại là niềm tin yêu vào cuộc sống và sự tái hợp:
Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời
Người hẹn cùng tôi ngày về khi đất nước yên vui…
(…) Một mùa đông giá hang Bêlem Chúa sinh ra đời
Một trời đầy sao nghìn hào quang chiếu sáng ngôi sao…
Bài Mùa sao sáng là nhạc đạo chứ không phải thánh ca, viết ở âm thể Trưởng, giai điệu giản dị nhưng sáng đẹp, trong trẻo như đêm Noel, nghe như thánh ca. Mùa Giáng sinh trong nhạc ông là “hội sao trần thế”, “xanh như liễu Đà Lạt” – màu vòng lá Noel; nhạc của những tâm tình reo vui:
“Pong ping pong, pong ping pong…
Chuông giáo đường thánh thót
Đêm Noel chuông vang như mang bao yêu thương loan trong ánh sao sáng… (Hồi chuông nửa đêm).
Xóm đạo nào đó của ông luôn có hình ảnh một người cụ thể, rất cụ thể trong ăn mặc, tính cách đơn sơ và tất nhiên rất ngoan đạo. Tôi không nghĩ ông chưa từng có một người thương nào đó ở một xóm đạo. “Yêu ai, yêu cả đường đi lối về…”. Như có lần trong lễ nửa đêm Noel, ông lặng lẽ đứng một mình trong sân nhà thờ Ba Chuông (Đa Minh) – như để gợi lại kỷ niệm, người thương nào đó ở một xóm đạo nào đó. Trong gió may se lạnh đêm cuối năm. Một mình…
lbum Chiều mưa biên giới do Paris By Night phát hành năm 2018, ngay sau khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua đời – Ảnh: CMC
Những đêm cuối năm Ông Tạ ngày xưa ấy chắc chắn lạnh hơn bây giờ khi nhà cửa chưa chật chội như hôm nay. Phía sau các dãy nhà mặt tiền đường Lê Văn Duyệt nối dài/Phạm Hồng Thái (nay là Cách Mạng Tháng Tám), Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai)… vẫn là những nhà trệt, nhà gác gỗ. Kinh rạch còn nhiều và còn cả những cánh đồng rộng ở An Lạc, Lộc Hưng, khu Chăn nuôi… Đường phố cũng không rực rỡ đèn hoa giăng ngang đường như hôm nay. Chỉ là những hang đá kín ban công tầng một nhiều nhà mặt tiền và những dây đèn quả nhót ánh sáng không mạnh. Hang đá rất lớn của các nhà thờ luôn là điểm chiêm ngưỡng, tưởng tượng của bao ánh mắt trẻ thơ Ông Tạ.
Những ngày ấy, cả khu vực Ông Tạ là vô vàn những hang đá lớn nhỏ, bằng giấy bạc, bằng giấy bao ximăng phun sơn đen, xám, trắng và bằng cả những thanh mút sốp trắng ngâm xăng dầu… để kết dính. Mút sốp được bóp vụn rải lên những cây thông làm tuyết. Trái châu và dây kim tuyến treo lóng lánh reo vui các cửa tiệm… Trẻ con Ông Tạ đi học qua đứa nào cũng ngẩn ngơ nhìn ngắm đến rơi cả cặp; tưởng tượng lóng lánh đêm Giáng sinh và mơ quà của Ông già Noel… Các trường khu Ông Tạ hầu hết cạnh nhà thờ. Học trò có những buổi học được nghỉ để thầy cô, các cha, các dì (soeur) bắt xếp hàng, “dong” đi xưng tội. Về nhà, cha mẹ dắt ra tiệm hớt tóc “gọt” lại cái đầu cho dễ chải, dễ vuốt nước những mái tóc lởm chởm mưa nắng đi lễ đêm Noel. Tạm quên con dế, viên bi, xấp hình…; tạm quên những buổi choảng nhau vỡ đầu thằng xóm khác; tạm quên những trò nghịch ngợm trẻ con bấm chuông nhà hàng xóm…
Đó thật sự là những ngày đáng sống của Ông Tạ; những ngày thanh tẩy, reo vui tâm hồn người người. Ai ở Ông Tạ không từng trải qua, từng nhớ da diết…? Anh Đặng Quốc Thông, một “thằng bé” Ông Tạ xưa vốn không phải Kitô hữu, như nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tới giờ vẫn nhớ rõ mồn một những ngày Giáng sinh khu Ông Tạ này:
“Vì cơ bản là khu Công giáo di cư, nên không khí chào đón ngày Chúa sinh ra đời ở Ông Tạ rất nhộn nhịp. Ngay từ đầu tháng 12, các nhà mặt phố ở ngã ba Ông Tạ đã dẹp các hàng bán truyền thống qua một bên để bày bán đồ trang trí Giáng sinh. Các ông sao đủ cỡ, ông nhỏ bằng cái chậu con, ông to bằng cả mặt bàn ăn 12 người; ông nào cũng được phết bằng giấy bóng kiếng đỏ có rồng rắn mấy đường trang trí bằng phẩm màu trắng và xanh lơ sặc sỡ. Có vòng ngôi sao cuốn giấy hoa chạy quanh năm đỉnh cánh. Rồi cây thông, thường là bằng giấy kim tuyến bạc lóng lánh có đính các trái châu thủy tinh xanh đỏ tím vàng trông rất bắt mắt. Rồi ông già Noel và các giải tua ren trắng đỏ cũng như các giải băng hình cánh cung ghi hàng chữ “Vinh danh Thiên Chúa trên trời – Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Nhưng đặc sắc hơn cả ở khu này là hang đá đủ cỡ đủ kiểu, có cái làm bằng giấy bao ximăng phun nhựa đường hay sơn đen gì đó. Có hang làm bằng giấy bạc óng ánh. Hang nào cũng đi kèm một bộ tượng nặn rất sắc nét và tô mầu rất cầu kỳ với Chúa Hài đồng nằm giang hai bàn tay thơ ngây trong trắng trong máng cỏ, hai bên có ông Giuse và bà Maria khuôn mặt hiền hậu, thánh thiện. Lơ lửng trên không là thiên thần; trước cửa hang trong tư thế quỳ lạy là ba nhà tiên tri chống gậy dắt theo bầy dê, bò, cừu như lễ vật mừng Chúa Giáng sinh.
Trễ nhất, khoảng giữa tháng 12, các nhà dọc hai bên đường Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai) từ ngã ba Ông Tạ đổ xuống đến rạp hát Đại Lợi, hoặc dọc đường Lê Văn Duyệt (nay là Cánh mạng tháng từ ngã ba Ông Tạ đổ về đến khu nhà thờ Chí Hòa phía bên kia hồ bơi Cộng Hòa, cũng đều đã trang trí mặt tiền nhà, thường được đặt trên lan can tầng 1, 2 với những hang đá, đèn ngôi sao, hình thiên thần, ngôi sao Bếtlêhem, và các dây tua và dây đèn điện chớp sáng đủ mầu.
Thường thì đèn trang trí sẽ được bật lên lúc 6 giờ chiều khi trời mới nhọ nhem và để vậy cho đến sáng. Khoảng 9, 10 giờ đêm, các nhà hai bên đường đóng cửa, tạo ra một khoảng tối dưới mặt đường, tương phản hoàn toàn với không gian sáng ấm phía trên. Trong tiết trời se se lạnh những ngày cuối năm, khách đi bộ hay đi xe máy ngang trên đường, không ai là không ngước nhìn lên các hang đá rực rỡ, lung linh hai bên; không tai ai không nghe văng vẳng như từ hai ngàn năm trước vọng về bài hát có thể nói là truyền thống của các xóm đạo: “Đêm đông lạnh lẽo chúa sinh ra đời… Chúa… sinh ra đời… nằm trong hang đá… nơi máng lừa…”. Và không ai là không nghĩ đến tình thương bao la của Thiên Chúa đang rải xuống trần, để chợt thấy lòng mình ấm áp hẳn và cảm nhận ngay lập tức như đang ùa vào hồn mình một tình yêu người, yêu đời tha thiết…”.
Người nhạc sĩ tài hoa ấy đã thấy, đã sống trong các xóm đạo Ông Tạ những ngày yêu thương, ấm cúng này, trong hồi chuông nửa đêm lành thánh, yên bình xóm đạo… Ông tự xác định mình là người ngoại đạo, nhưng ông đã làm nhạc không khác một Kitô hữu thuần thành: “Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời – Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa – Con xin đuợc sống bên chàng – Nguời con nhớ con thương – Kính mến tôn thờ Chúa, Amen” (Tình người ngoại đạo).
Và Mẹ Maria, lời kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phước…” hiện ra trong nhạc ông, trông đợi ngày gặp lại:
“Xin Mẹ Maria
Cho nước con vui đời thăng hoa
Đã mấy mươi năm, Mẹ ơi sống trông mong ngày vui
Một ngày bên nhau hát câu đoàn viên
Hãy ban cho một mùa xuân như ý quên sầu bi
Đầy ơn phước trong tay Người
Mẹ ơi bao la lòng Maria
Này đây muôn kinh quỳ lạy tấu dâng lên Bà” (Ave Maria)…
Tôi quen và là “khách ruột” mua giò chả, phômai… mấy chục năm nay ở cửa hàng của vợ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cô Nguyệt Thu. Cô Thu cùng quê Gò Công với Hoàng hậu Nam Phương (tuy nhiên, như chú, quê Tây Ninh nhưng cả hai vợ chồng đều sinh ra, lớn lên ở Sài Gòn) và nét mặt cũng hao hao: thon dài, trắng trẻo, mắt một mí lót, hơi xếch. Cô vốn là quản lý Hãng dĩa hát Continental mà chú là giám đốc nghệ thuật. Cô Nguyệt Thu về với chú năm 1968, ở nhà mướn khu cư xá Đô Thành.
Thực sự nhiều người ngạc nhiên khi lúc đó ông là sĩ quan cấp tá Bộ Tổng tham mưu VNCH, rồi là giám đốc ba công ty băng dĩa lớn ở Sài Gòn lúc đó mà lại mua ngôi nhà nhỏ ở khu vực nhà cửa khi ấy khá lụp xụp như vậy (sát khu vực vốn là đất trồng cây giống của Sở Bảo vệ mùa màng VNCH bị thương phế binh VNCH chiếm). Thời điểm đó, cách vài bước chân là ra đại lộ Cách Mạng 1-11 có rất nhiều ngôi nhà lớn, biệt thự của sĩ quan VNCH chức vụ và cấp bậc còn dưới ông. Niềm vui hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ chỉ được vài năm. Sau 1975, ông đi cải tạo. Cải tạo về năm 1985 với nhiều bịnh; cô phải bồng bế ông, chăm sóc từng chút. Ông không chịu định cư ở Mỹ theo diện HO do nhiều lý do. Cô Nguyệt Thu vẫn lặng lẽ một cách sang trọng chăm sóc chồng, từ cửa hàng ban đầu bán cám gà, chuối… rồi mới thành tiệm bán thịt nguội, tạp hóa nhỏ Nhiên Hương mà tôi đi qua hàng ngày, ghé mua hàng ngày và Tết nào cô cũng lì xì tôi: khi hộp bánh, khi gói lạp xưởng…
Cô Nguyệt Thu gửi tặng tôi album nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông do Paris by night phát hành năm 2018, sau khi chú ra đi – Ảnh: CMC
Cửa hàng tên Nhiên Hương phải chăng là suy nghĩ của hai vợ chồng: “Hữu xạ tự nhiên hương”, không cần phải gồng mình, lớn tiếng khẳng định? Cả hai vợ chồng đều sống lặng lẽ, lặng lẽ đến mức khi ông ra đi, nhiều người hàng xóm và khách mua hàng mới biết ông là tác giả nhiều nhạc phẩm họ yêu thích… Vị nhạc sĩ này hoàn toàn lặng lẽ, không một phát biểu sau khi cải tạo về. Lãnh sự quán Mỹ liên hệ kêu đi diện HO (đại tá VNCH, đi cải tạo bảy năm, đi khá dễ dàng), ông từ chối. Lặng lẽ như khi còn trong Trại cải tạo Suối Máu (Biên Hòa, Đồng Nai), ông nằm lắng nghe tiếng xe lửa vang xình xịch cách trại không xa và viết nhạc phẩm không lời Tiếng chim hót trong lồng. Lặng lẽ nhớ Sài Gòn, nơi ông sinh ra, lớn lên cho một nhạc phẩm có lời: “Sài Gòn trong trái tim tôi”, “Cho nhớ thương vời vợi… Sài Gòn luôn trong trái tim tôi…”…
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ra đi tối 26-2-2018 (11 tháng Giêng năm Mậu Tuất), sau giao thừa thứ 87 của đời mình và chỉ hơn nửa tháng nữa là sinh nhật ông. Thế là hết những “Phiên gác đêm xuân”: “Đón giao thừa một phiên gác đêm…”.
Đến ngôi nhà nhỏ (chiều ngang chỉ hơn 3m; do vợ chồng ông gom góp mua từ năm 1970, sau hai năm về với nhau) thắp nhang, cô Nguyệt Thu gương mặt vẫn sang trọng nhưng đôi mắt đỏ hoe: “50 năm cô chú đã đi cùng nhau và 48 năm ở ngôi nhà nhỏ này…”. Những ngày sau đó, cô Thu gầy sụp 4-5kg, trong khi cô vốn gầy yếu; lơ thơ đi lại, sống với ngôi nhà ngập tràn kỷ niệm xưa. Người thân hoảng. Ngày 5-8-2018, cô kêu tôi tới nhà tặng dĩa nhạc tưởng niệm chú do chương trình Thúy Nga tổ chức ở Mỹ. Thấy cô héo hắt… Trong nỗi buồn đau quá lớn, cô còn có ý định đốt bỏ hết những tư liệu, di cảo âm nhạc của chú; bán ngôi nhà kỷ niệm, mang bàn thờ chú, ba mẹ chú về quê cô ở Gò Công thờ. Sao không mang về Bến Cầu? “Cả chục hecta đất quê sau 1975 không còn…” – cô bảo.
Tôi cầm bàn tay trơ xương của cô xin cô bình tĩnh, ăn uống cho lại sức. Khi bớt đau, tính gì thì tính chứ lúc đó chắc chắn cô chưa tỉnh đâu. Tết. Cô nằng nặc bắt tôi phải nhận đòn chả lụa và tấm bánh chưng Bắc: “Tối cô ngủ, thấy chú về, dặn cô cho Công cúng Tết mẹ”. Chú Đông vốn mồ côi mẹ sớm… “Hồi trước, Công tới mua đồ hàng ngày. Chú ngồi trên phòng cứ hỏi thăm. Giờ chú về dặn nấu xôi chè, gởi Công đó…” – cô Thu đỏ hoe mắt khi kêu tôi tới nhận xôi chè cô nấu…
Như tính cách, mùa xuân lẫn nhạc đạo của ông sao mà sâu lắng quá, mênh mông cả trong ca từ lẫn nhịp nhạc; rung động lòng người nghe… Vì vậy, sau khi ông ra đi, có nhà thờ ở Bến Tre đã tổ chức lễ cầu nguyện cho ông nhân 49 ngày – theo thông lệ những người theo đạo Phật (người Công giáo thường “xin lễ” khi đủ 100 ngày). Không hiểu sao lúc nào tới nhà cô chú cũng gặp hoa cúc vàng – một loài hoa của mùa xuân miền Nam. “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người…”… Người nhạc sĩ tài hoa làm dân Ông Tạ 48 năm ấy đã ra đi, hai tháng nữa là tròn ba năm.
Một mùa Noel nữa lại về…
“Đêm nay tôi nhớ người xưa trở lại
Chênh chếch mùa sao lạc loài
Ôi những mùa sao lẻ loi…”
(Mùa sao sáng)
( từ email Milykim)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Văn Đông | |
---|---|
Chân dung Nguyễn Văn Đông năm 1964 | |
Chức vụ | |
Chánh Văn phòng Tổng Tham mưu phó | |
Nhiệm kỳ | 11/1972 – 4/1975 |
Cấp bậc | Đại tá (11/1972) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Tổng tham mưu trưởng Tổng tham mưu phó | Đại tướng Cao Văn Viên • Trung tướng Nguyễn Văn Là • Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh |
Trưởng phòng nhân viên Khối Lãnh thổ Bộ Tổng tham mưu | |
Nhiệm kỳ | 6/1968 – 11/1972 |
Cấp bậc | Trung tá (6/1968) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Phó phòng Nhân viên Khối Lãnh thổ Bộ Tổng tham mưu | |
Nhiệm kỳ | 11/1963 – 6/1968 |
Cấp bậc | Thiếu tá (11/1963) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Phục vụ Khối Lãnh thổ Bộ Tổng Tham mưu | |
Nhiệm kỳ | 11//1961 – 11/1963 |
Cấp bậc | Đại úy (10/1959) |
Vị trí | Quân khu Thủ đô |
Tổng Tham mưu trưởng | Đại tướng Lê Văn Tỵ |
Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian Đài Phát thanh Sài Gòn | |
Nhiệm kỳ | 6/1958 – 11/1961 |
Cấp bậc | Trung úy |
Vị trí | Thủ đô Sài Gòn |
Trưởng phòng 3 Tác chiến Phân khu Đồng Tháp Mười | |
Nhiệm kỳ | 11/1955 – 12/1957 |
Cấp bậc | Trung úy (8/1954) |
Vị trí | Đệ ngũ Quân khu |
Phân khu trưởng | Đại tá Nguyễn Văn Là |
Trưởng phòng Hành quân Phân khu Đồng Tháp Mười | |
Nhiệm kỳ | 8/1954 – 11/1955 |
Cấp bậc | Thiếu úy (10/1952) |
Vị trí | Đệ ngũ Quân khu (Tây Nam Phần) |
Phân khu trưởng | Đại tá Nguyễn Văn Là |
Chỉ huy Tiểu đoàn Trọng pháo 553 Quân đội quốc gia Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 4/1954 – 8//1954 |
Cấp bậc | Thiếu úy (10/1952) |
Vị trí | Đệ tam Quân khu Bắc Việt |
Thông tin chung | |
Sinh | 15 tháng 3, 1932 Khu Sài Gòn – Chợ Lớn, Đông Dương thuộc Pháp |
Mất | 26 tháng 2, 2018 (85 tuổi)[1] Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam |
Nghề nghiệp | Quân nhân Nhạc sĩ |
Dân tộc | Kinh |
Vợ | Trần Thị Nguyệt Thu |
Con cái | Không |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Trường lớp | Trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao, Sài GònTrường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng TàuTrường Võ bị Địa phương Vũng TàuTrường Võ bị Liên quân Đà LạtTrung tâm Chiến thuật Hà NộiTrường Chỉ huy Tham mưu Sơ cấp Hawaii, Hoa Kỳ |
Quê quán | Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh, Việt Nam |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân đội Quốc gia Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Quốc gia Việt Nam Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1951 – 1975 |
Cấp bậc | Đại tá |
Đơn vị | Bộ binh Bộ Tổng Tham mưu |
Chỉ huy | Quân đội Quốc gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến | Chiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt Nam |
Khen thưởng | Đệ Tứ đẳng Bảo quốc Huân chương |
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông | |
---|---|
Giải thưởng | Giải Âm nhạc Quốc gia của Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Tên gọi khác | Anh Nguyên Đông Phương Tử Hoàng Long Nguyên Phương Hà Phượng Linh Thùy Linh Vì Dân |
Thể loại | Tình khúc 1954-1975 Nhạc vàng |
Hãng đĩa | Continental Sơn Ca |
Hợp tác với | Lam Phương Lâm Tuyền Mạnh Phát Minh Kỳ Ngọc Sơn Song Ngọc Tuấn Khanh Thu Hồ Y Vân |
Bài hát tiêu biểu | “Chiều mưa biên giới“ “Hải ngoại thương ca” “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” “Mấy dặm sơn khê“ “Phiên gác đêm xuân” “Sắc hoa màu nhớ” |
Ca sĩ trình bày thành công | Hà Thanh Giao Linh Thanh Tuyền |
Nguyễn Văn Đông (15 tháng 3 năm 1932–26 tháng 2 năm 2018) nguyên là một sĩ quan bộ binh cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Đại tá, khởi binh nghiệp từ thời Quốc gia Việt Nam. Đồng thời, ông được nhiều người biết đến với tư cách là nhạc sĩ nổi tiếng qua rất nhiều nhạc phẩm tiêu biểu như “Chiều mưa biên giới“, “Hải ngoại thương ca”, “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, “Mấy dặm sơn khê“, “Phiên gác đêm xuân”, “Sắc hoa màu nhớ”,… Các nghệ danh của ông là Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, Thùy Linh, Hoàng Long Nguyên (trước 1975) và Anh Nguyên (sau 1975).
Thiếu thời[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại Quận 1, Sài Gòn, nguyên quán ở làng Lợi Thuận, tổng Mỹ Ninh, quận Trảng Bàng,[2] tỉnh Tây Ninh, Nam Kỳ; nay thuộc huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. Ông sinh trưởng trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở tỉnh này. Thuở nhỏ, nhờ gia đình khá giả nên ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau đó ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở khu Đa Kao, Quận 1.[3] Khoảng 1945-1946, trường này bị đóng cửa. Gia sản bị tịch biên để sung vào quỹ kháng chiến chống Pháp; cha mẹ bị bắt tù vì là điền chủ.[4] Thời đó có viên Đại úy Pháp là Vieux từng coi ông như nghĩa đệ đã nhận ông làm dưỡng tử và gửi vào học ở Trường Thiếu sinh quân Đông Dương (tiếng Pháp: École d’enfants de troupe) ở Vũng Tàu khi ông 14 tuổi.[5][6] Năm 19 tuổi, ông tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân và nhận chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Tú tài I).
Binh nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Quân đội Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Cuối năm 1951, ông nhập ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân 52/120.117, sau đó được cử theo học Khóa 4 Trường Võ bị Địa phương ở Vũng Tàu (École militaire Cap Saint-Jacques). Tháng 10 năm 1952, ông mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy phục vụ đơn vị Bộ binh. Đầu năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện “Đại đội trưởng” tại Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (École militaire interarmes de Dalat). Đầu năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu đoàn trưởng” tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội (Centre de formation tactique des officiers vietnamiens d’Hanoï). Ra trường, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.[6] Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh Đông Dương, ông chỉ huy trọng pháo ở Móng Cái và Lạng Sơn.[5] Không lâu sau Hiệp định Genève, đầu tháng 8 năm 1954 ông di chuyển vào miền Nam Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân.[3]
Quân lực Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu tháng 11 năm 1955, ông được chuyển biên chế sang Quân lực Việt Nam Cộng hòa, kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của phân khu Đồng Tháp Mười, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là. Trước đó ông đóng quân ở khu vực mà nay là các huyện Đức Hòa, Đức Huệ tỉnh Long An.[3] Năm 1956 ông tham gia chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh để đánh dẹp lực lượng quân sự Phật giáo Hòa Hảo, và tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.[chú thích 1]
Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu sơ cấp tại quần đảo Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Ông kiêm nhiệm nhiều chức vụ như Bí thư Tổng giám đốc Cảnh sát, Công an Quốc gia và Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô.[7]
Tháng 11 năm 1961, ông chuyển về Bộ Tổng tham mưu, phục vụ trong khối Lãnh thổ, dưới quyền Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Lê Văn Tỵ.
Sau Đảo chính 1963, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ phó phòng Nhân viên ở khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá lên làm Trưởng phòng Nhân viên trong khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá, chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu phó, trải qua hai đời Tổng Tham mưu phó là Trung tướng Nguyễn Văn Là (1968-1974) và Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh (1974-1975), cùng Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Cao Văn Viên. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ông được tặng thưởng Đệ Tứ đẳng Bảo quốc Huân chương và một số huy chương quân sự, dân sự khác.
Sự nghiệp âm nhạc trước 1975[sửa | sửa mã nguồn]
Tân nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Thời gian học tại Trường Thiếu sinh quân Đông Dương, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc Học viện Âm nhạc Paris sang giảng dạy. Năm 15 tuổi, ông trở thành thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như “Thiếu sinh quân hành khúc”, “Tạm biệt mùa hè”,…[3] Nhạc sĩ chơi kèn trumpet, kèn clairon, trống, chập chả, mandoline, Hạ Uy cầm,…[3]
Nguyễn Văn Đông lấy binh nghiệp làm chính, xem âm nhạc là nghề tay trái.[3] Dù vậy, ngay từ cuối thập niên 1950 ông đã nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim,…[3] Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1958, ông là Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc,… Năm sau, ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện Việt Nam Cộng hòa cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia do Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng.[3]
Rất nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó, thường ký “Vì Dân” hoặc “Nguyễn Văn Đông”. Nhạc phẩm habanera “Phiên gác đêm xuân” được ông phát hành năm 1959 trong niềm hồi tưởng đêm 30 Tết Nguyên Đán năm 1956 khi đang gác phiên ở Khu 9 Đồng Tháp Mười. Bản slow-tango “Chiều mưa biên giới” cũng xuất bản năm 1959[5] trong nỗi hoài niệm khoảng thời gian đóng quân miền biên giới Việt Nam-Campuchia kể trên. Bài này nổi tiếng qua giọng Trần Văn Trạch, người đã ca bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp trong hợp đồng thu thanh với một hãng dĩa của Pháp,[8] thu âm thu hình cho hai đài Europe No.1 và Ðài Truyền hình Pháp. Trong vòng ba tháng, Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam phá kỷ lục xuất bản với doanh số hơn sáu vạn tờ nhạc[chú thích 2].[7] Nhạc khúc điệu slow “Mấy dặm sơn khê” cũng vang danh qua giọng ca Trần Văn Trạch và ca sĩ Lệ Thanh; đến năm 1961, trong đại nhạc hội Trăm Hoa Miền Nam kéo dài 10 đêm ở rạp Hưng Đạo (Sài Gòn), tác giả song ca với ca sĩ Thái Thanh ca khúc này cùng ban đại hòa tấu của nhạc trưởng Nghiêm Phú Phi và sự tham gia của nhạc sĩ Lê Thương.[9] Bản tango habanera “Sắc hoa màu nhớ” ghi lại tình cảm nhẹ nhàng thuở học trò trong lòng người quân nhân một chiều hành quân qua lối cũ. Điệu slow “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” thì nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh. Khoảng năm 1968, ông viết bài “Anh trước tôi sau” để tưởng nhớ người đồng môn ở Trường Thiếu sinh quân là Thiếu tướng Trương Quang Ân, nội dung hàm ý người lính chấp nhận chuyện sống chết, chỉ là ai trước ai sau.[7]
Tuy nhiên, vào khoảng từ tháng 11 năm 1961, đã có đồng thời hoặc lần lượt bốn bài hát của ông bị Bộ Thông tin Đệ nhất Cộng hòa cấm phổ biến với lý do gây bất lợi cho chiến cuộc, gồm “Chiều mưa biên giới”, “Phiên gác đêm xuân”, “Mấy dặm sơn khê” và “Nhớ một chiều xuân”.[3][5] Cùng thời gian này hai bản “Cuốn theo chiều gió” và “Bến đò biên giới” cũng từng bị nhạc sĩ thông báo là không xuất bản nữa.[5] Bài “Mấy dặm sơn khê” phải chỉnh sửa hàng loạt câu từ thì về sau mới lưu hành trở lại.[10] Vì sự vụ này mà ông bị quân đội phạt 15 ngày trọng cấm và cấm hiện diện trong tất cả sinh hoạt ca nhạc tại địa điểm công cộng,[7] đồng thời đình chỉ thăng hàm trong vòng hai năm kế tiếp.[11]
Ông còn có nhiều nghệ danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, trên nhiều nhạc phẩm tình cảm như “Cay đắng tình đời”, “Chiếc bóng công viên”, “Dạ sầu”, “Khi đã yêu”, “Niềm đau dĩ vãng”, “Thầm kín”, “Thương muộn”, “Thương về mùa đông biên giới”, “Xin đừng trách anh”, “Nhớ Huế”, “Màu xanh Noel”,… Ông còn có một nghệ danh rất hiếm là Hoàng Long Nguyên[12] với bài “Truông mây”.
Tân cổ giao duyên[sửa | sửa mã nguồn]
Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Đoạn tuyệt, Mắt em là bể oan cừu, Mưa rừng, Nửa đời hương phấn, Sân khấu về khuya, Tiếng hạc trong trăng,…[3] và vô số bản tân cổ giao duyên. Ông chủ động học hỏi soạn giả Hoàng Khâm, các danh cầm Văn Vĩ, Năm Cơ, Hai Thơm,…để có đủ kiến thức cộng tác cùng các soạn giả cải lương nhằm phát triển song song hai bộ môn tân nhạc và cổ nhạc như chủ trương hoạt động của hãng Continental.[13] Xuất phát từ sáng kiến nghiên cứu cách cải cách sáu câu vọng cổ của kỹ sư Ngô Văn Đức (hãng dĩa Asia), Nguyễn Văn Đông trở thành người có công hàng đầu trong sự phát triển của phong trào tân cổ giao duyên.[chú thích 3] Ông và soạn giả Viễn Châu đã nghiên cứu lắp ráp tân nhạc-cổ nhạc sao cho ăn khớp nhau. Ông cho ra đời phương pháp ký âm bài nhạc hòa hợp giữa tân nhạc và cổ nhạc bằng một cách thức dễ hiểu, hợp mọi trình độ nhạc lý, hầu giúp nghệ sĩ cổ nhạc mang lên sân khấu hát dễ dàng như bản tân nhạc, nhan đề là Hướng dẫn ca và kỹ thuật sáng tác bài tân cổ giao duyên. Tân cổ giao duyên đã cứu vãn tình thế ế ẩm của các băng dĩa cổ nhạc thuần túy đương thời.[13]
Giám đốc âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Từ khi chuyển qua Bộ Tổng Tham mưu, dù Bộ Quốc phòng không ưa chuyện ông làm âm nhạc, nhưng ông tự tả mình là “người chia làm hai” vì làm quân sự trong tuần còn làm nhạc và băng dĩa vào tối thứ Bảy và Chủ Nhật.[5] Ông là Giám đốc nghệ thuật của hai hãng ghi âm là Continental (thành lập năm 1960) và Sơn Ca (thành lập năm 1967), cũng như nhãn hiệu băng nhạc Premier, cộng tác với các tài danh hòa âm phối khí tên tuổi như Lê Văn Thiện, Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân,… Các cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng cải lương. Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album phòng thu riêng cho từng ca sĩ,[3] mở ra một hướng đi mới mẻ cho nhiều băng khác về sau,[6] trong bối cảnh các băng nhạc đương thời phần lớn là băng tổng hợp nhiều ca sĩ. Sự khai phá ấy chính là loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng, có thể kể đến Khánh Ly với băng nhạc Trịnh Công Sơn – Sơn Ca 7, Thái Thanh và Ban Thăng Long – Sơn Ca 10, Lệ Thu – Sơn Ca 9, Phương Dung – Sơn Ca 5 và Sơn Ca 11, Giao Linh – Sơn Ca 6, Sơn Ca – Sơn Ca 8,… Ông cũng chủ trương bốn nhà xuất bản tờ nhạc là: Trăm Hoa Miền Nam (lập năm 1966, Phượng Linh chủ trương), Nhạc Quê Hương (1967, Đông Phương Tử chủ trương), Hoa Bốn Phương (1971)[5] và Việt Nhạc.
Hai nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và Y Vân cùng nhau thực hiện công trình nghệ thuật Dân ca ba miền về sưu tầm và quảng bá các làn điệu dân ca Việt Nam, trong đó Nguyễn Văn Đông phác thảo, còn Y Vân sưu tầm, sàng lọc, tuyển lựa dày công trong hai năm. Năm 1974, hãng dĩa Continental thu âm và phát hành thành băng Continental 6: Dân ca 3 miền – Nam, Trung, Bắc, nhan đề tiếng Anh là Vietnamese Traditional Songs,[14] gửi tặng đại sứ quán các nước đóng tại đô thành và các cơ quan phụ trách văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Công trình này từng được Tổng Giám đốc UNESCO khích lệ lập hồ sơ đề nghị xét duyệt di sản cho dân ca Việt Nam, và dù hồ sơ đã trình cơ quan chính phủ nhưng vĩnh viễn không kịp gửi đi vì hoàn cảnh lịch sử vào năm sau.[15][16]
Cơ duyên với các ca sĩ[sửa | sửa mã nguồn]
Ông đã đào tạo hai học trò thành ca sĩ nổi tiếng, được đông đảo người yêu thích nhạc vàng biết đến, đó là Thanh Tuyền và Giao Linh. Ông phát hiện Thanh Tuyền từ khi bà còn là nữ sinh trung học ở Đà Lạt, gầy dựng nền tảng cho sự nghiệp lừng lẫy của bà sau này. Những năm sau đó, ông lại thu nhận thêm gương mặt mới Giao Linh, rèn giũa và lăng xê bà với bản hợp đồng độc quyền qua hãng Continental.[17] Sau này, cả hai giọng ca đều là tượng đài của dòng nhạc vàng.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông dùng lời lẽ sau để nói về giọng hát của Hà Thanh khi biểu diễn nhạc của ông: “Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác giả khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật.“[18] Hà Thanh cũng phát biểu với báo chí đương thời rằng “air” nhạc của ông hợp với chất giọng của bà.[4]
Sau năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vì là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên ông bị bắt đi học tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu (tức trại Tam Hiệp, ở Biên Hòa, Đồng Nai), tới năm 1978[5] thì bị đưa về giam ở khám Chí Hòa. Đầu năm 1985, ông được trả về với lý do “đương sự bị bệnh sắp chết”, cho “đem về nhà chôn cất”.[6] Khi đó ông thuộc danh sách ưu tiên đi định cư Hoa Kỳ diện H.O. nhưng vì sức khỏe đã tàn tạ, nghĩ rằng không thể sống thêm nên ông rút hồ sơ hòng qua đời tại quê hương. Tuy nhiên, may mắn nhờ các loại tân dược hữu hiệu nên sức khỏe được phần hồi phục, đến năm 1995 ông đã có thể đứng được mà không cần chống nạng.[8][19] Ông sống thầm lặng tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cùng vợ là bà Trần Thị Nguyệt Thu, cựu nhân viên hãng dĩa Continental.[3]
Một thời gian dài, toàn bộ sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bị nhà đương cục cấm lưu hành, phổ biến. Dần dà khi Việt Nam trở nên cởi mở hơn, năm 2003, Cục Nghệ thuật biểu diễn nước này cấp phép lưu hành khoảng 24 ca khúc.[chú thích 4][19] Năm 2017, ca khúc đắc ý “Chiều mưa biên giới” mới được cấp phép.[20] Một điều ít biết là bài “Chiều mưa biên giới” đã theo các dĩa hát phát tán đi nhiều nơi ở nước Việt Nam thống nhất kể từ sau năm 1975; có chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nghe ca khúc này và thêm lòng tin chiến đấu ngay trong giai đoạn Chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979.[21]
Suốt hàng chục năm ông không hoạt động nghệ thuật. Giai đoạn ở trại Suối Máu, ông cảm tác bài “Sài Gòn trong trái tim tôi”.[22] Bài “Sài Gòn trong trái tim tôi” và “Chào đất nước tự do và hy vọng” được ông tập cho Hà Thanh hát năm 1999 khi gia đình bà về Việt Nam lo việc riêng. Về Hoa Kỳ, Hà Thanh đã chép lại và được tác giả đề nghị đề nghệ danh là Anh Nguyên.[23] Sáng tác cuối cùng của ông là bài “Việt Nam quê hương lộng lẫy”. Cuối thập niên 1990, ông hướng dẫn hát và sáng tác cho ca sĩ Trần Tuấn Kiệt quê Sa Đéc, Đồng Tháp và đây được coi là học trò thứ ba của ông.[24][25]
Vào hồi 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018, Nguyễn Văn Đông qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 86 tuổi.[1] Tro cốt của ông được rải xuống biển Vũng Tàu thể theo di nguyện.[24]
Cuối tháng 4 năm 2018, Trung tâm Thúy Nga đã thực hiện chương trình Paris By Night 125 – Chiều mưa biên giới để vinh danh dòng nhạc và tưởng niệm ông.[chú thích 5][9]