Đăng ngày: 16/07/2024
Quá trễ để « tách » khỏi Trung Quốc ? Trong ít nhất 4 lĩnh vực công nghệ cao, qua các dự án đầu tư chồng chéo, Liên Âu và Mỹ đã « gắn kết » quá chặt với Trung Quốc. Tại sao chỉ với 12% đầu tư vào công nghệ cao của Trung Quốc, các doanh nghiệp Âu Mỹ bị cho là đã giúp một « đối thủ » cất cánh, để rồi Hoa Kỳ không còn là tâm điểm của thế giới về công nghệ mũi nhọn, châu Âu thì hoàn toàn mờ nhạt trong cuộc đua ?
Âu-Mỹ không chỉ lo những con chim đầu đàn trong những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn của mình bị một đối thủ đáng gờm như Trung Quốc thâu tóm. Từ 2018 Bruxelles và Washington theo dõi chặt chẽ hơn các dự án đầu tư của Âu-Mỹ vào Hoa Lục, Hồng Kông và Macao.
Chuyên nghiên cứu về các công nghệ mới, về chính sách công nghệ của Hoa Kỳ và Trung Quốc tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, tháng 7/2024 Mathilde Velliet công bố nghiên cứu mang tựa đề « Tài trợ cho đối thủ. Khi Mỹ và châu Âu đầu tư vào công nghệ Trung Quốc ». Tác giả tập trung vào những khoản đầu tư của châu Âu và Hoa Kỳ tại Trung Quốc trong giai đoạn 2003-2023. Đấy là thời điểm công nghệ mới tại Trung Quốc đã cất cánh rất nhanh. Công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc là hai lĩnh vực sớm được các đối tác phương Tây quan tâm.
Ngoài ra, Mathilde Velliet đã nêu bật những khác biệt trong chính sách đầu tư của Mỹ và của Liên Hiệp Châu Âu và không mấy ngạc nhiên khi thấy một số nhà đầu tư châu Âu và Mỹ đã dễ dàng hợp tác với những đối tác Trung Quốc đang trong tầm ngắm của các giới chức an ninh Hoa Kỳ.
Tuy nhiên trong nghiên cứu, bà Velliet giải thích bà căn cứ vào số lượng các dự án mà tránh đề cập đến các trị giá các các dự án đầu tư vì các dữ liệu liên quan đến trị giá các khoản đầu tư thường được các bên tài trợ và nhận tài trợ giấu kín.
1.602 dự án của Mỹ
Trả lời ban Việt ngữ RFI Mathilde Velliet trước hết cho biết mục đích chính của công trình là nhằm điểm lại xem rằng trong số những dự án đầu tư của Âu, Mỹ vào Trung Quốc có thuộc diện « đặt ra vấn đề » đối với an ninh, chiến lược của Washington cũng như Bruxelles hay không, chẳng hạn như do liên hệ giữa các công ty Trung Quốc với quân đội nước này.
Mathilde Velliet : « Tôi đã tập trung vào bốn lĩnh vực công nghệ mang tính chiến lược, gồm trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học và thông tin lượng tử. Đây là bốn chìa khóa của toàn bộ ngành công nghiệp trong tương lai, liên quan đến cả vế thương mại lẫn quân sự. Bốn lĩnh vực này cũng đang là tâm điểm của những mối căng thẳng tại Washington và Bruxelles chung quanh chính sách đầu tư của Âu, Mỹ ra nước ngoài ».
Trong số các nhà đầu tư ngoại quốc vào công nghệ cao Trung Quốc, Liên Hiệp Châu Âu bị bỏ xa lại phía sau. Trong Liên Hiệp Châu Âu, thì Đức dẫn đầu với 49 dự án, Pháp về nhì với 36 thương vụ và Hà Lan đứng hạng 3, với 12 dự án. Tập đoàn Trung Quốc Didi, (tương đương với Uber), ông trùm về data center Tenglong Holding, hay Alibaba trong ngành mua bán trên mạng internet, đều đã phát triển nhờ có ít nhất là một nhà đầu tư Hoa Kỳ (Mathilde Velliet, p.49).
12 % đầu tư của Âu Mỹ tại Trung Quốc
Nhìn về tổng thể, trên 100 dự án đầu tư vào công nghệ cao tại Trung Quốc, 75 % do nước chủ nhà đảm nhiệm. Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu chỉ hiện diện trong 12 % các dự án và gần như luôn phải « đồng hành », dưới nhiều khía cạnh khác nhau, với các đối tác Trung Quốc.
Mathilde Velliet : « Khác biệt chính giữa Mỹ và châu Âu là về số lượng các dự án đầu tư. Trong cả bốn lĩnh vực vừa nêu (trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, công nghệ bán dẫn, tin học lượng tử), Hoa Kỳ là nguồn đầu tư ngoại quốc lớn nhất vào Trung Quốc với tổng cộng 1602 dự án trong hai thập niên qua. Con số này cao hơn rất nhiều so vớ 149 dự án của Liên Hiệp Châu Âu trong cùng thời kỳ. Ngoài ra, châu Âu chú ý nhiều vào các chương trình hợp tác trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo để sử dụng trong một vài lĩnh vực công nghiệp cụ thể, như trong ngành sản xuất xe hơi hay ngành kỹ thuật hóa học. Thí dụ như Đức đầu tư vào các dự án với Trung Quốc giúp ích cho công ngành sản xuất xe hơi.
Trái lại, các dự án của Mỹ đa dạng hơn, bao gồm cả bốn lĩnh vực tôi đã nêu bật trong nghiên cứu của mình. Khác biệt thứ ba giữa các dự án đầu tư của châu Âu và Mỹ vào Trung Quốc mang tính chiến lược : Đành rằng cả Bruxelles lẫn Washington cùng cân nhắc về mức độ rủi ro trong các dự án đầu tư vào Trung Quốc. Nhưng Nhà Trắng đã thông qua sắc lệnh để hạn chế đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Mỹ vào Trung Quốc, trong lúc Liên Âu thì vẫn còn đang trong giai đoạn suy nghĩ và tránh nhắm thẳng vào Trung Quốc ».
Bắc Kinh kiểm soát đầu tư nước ngoài
Vẫn bài nghiên cứu của Mathilde Velliet, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp ghi nhận : trong 4 lĩnh vực then chốt bà quan tâm, Âu-Mỹ đặc biệt chú ý đến trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học. Nhưng phương Tây chỉ chiếm thiểu số trong cả 4 mảng công nghệ mới nói trên. Trung Quốc và các ngân hàng của nước này đài thọ 78 % các dự án phát triển công nghệ sinh học và bán dẫn ; 77 % trí tuệ nhân tạo ; Trung Quốc đảm nhiệm 84 % đầu tư vào các phương tiện tin học lượng tử. Đến nay Mỹ trực tiếp tham gia vào hai chương trình đầu tư phát triển tin học lượng tử cho Bắc Kinh, Ý là một dự án. Tuy nhiên trong tất cả những lĩnh vực nhậy cảm vừa nêu, 3/4 trong số các dự án Âu, Mỹ được phép tham gia, đều là những mối « liên doanh » với các hãng của Trung Quốc.
Câu hỏi kế tiếp là tại sao Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu lo ngại về các khoản đầu tư dù khá ít ỏi (so sánh về số lượng dự án) vào Trung Quốc ?
Mathilde Velliet : « Các dữ liệu được thống kê trong 20 năm qua cho thấy, Mỹ và Liên Âu đầu tư vào công nghệ bán dẫn, vào trí tuệ nhân tạo, vào công nghệ sinh học và bất ngờ hơn cả là vào công nghệ thông tin lượng tử của Trung Quốc. Bất ngờ do chúng ta biết công nghệ thông tin lượng tử là một chìa khóa trong các cuộc chạy đua về công nghệ cao. Điều đó không cấm cản Mỹ đã đầu tư vào hai dự án và Liên Âu tham gia vào một chương trình hợp tác với Trung Quốc. Giờ đây điều khiến Washington lo ngại không vì Trung Quốc đã phát triển nhờ gặt hái được những thành quả từ các khoản đầu tư trực tiếp của Mỹ. Mối nguy hiểm, theo đánh giá của Washington, nằm ở chỗ qua 1 dự án hợp tác, phía Trung Quốc tiếp cận được nhiều đối tác của Mỹ, với nhiều nhà đầu tư Mỹ, tạo được uy tín để thu hút thêm các dự án đầu tư khác … Chính hiện tượng vết dầu loang đó đã giúp cho công nghệ cao của Trung Quốc nhanh chóng phát triển ».
Thế còn về phía châu Âu ?
Mathilde Velliet : « Bruxelles đặc biệt quan ngại trước viễn cảnh đầu tư của châu Âu cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng quân sự, phát triển những công cụ để tấn công tin học … và đó có thể là những mối đe dọa trực tiếp nhắm vào an ninh và hòa bình của thế giới. Chính điều này khiến Liên Hiệp Châu Âu trăn trở. Bruxelles ít quan tâm hơn đến vế cạnh tranh trực tiếp về công nghệ. Tôi xin lưu ý, thông thường, không phải lúc nào Liên Hiệp Châu Âu cũng tuân thủ những đòi hỏi của Hoa Kỳ nhưng riêng trên hồ sơ công nghệ, thì sở dĩ Bruxelles quan tâm đến các khoản đầu tư của châu Âu vào Hoa Lục do phía Mỹ khẩn khoản kêu gọi Liên Âu đề cao cảnh giác với Trung Quốc ».
Chính châu Âu và Mỹ phá rào ?
Nghiên cứu mang tựa đề « Tài trợ cho đối thủ. Khi Mỹ và châu Âu đầu tư vào công nghệ Trung Quốc », Mathilde Velliet ghi nhận :
Có ít nhất hai dự án của Đức tại Trung Quốc liên quan trực tiếp đến các thực thể bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách đen, do hoặc có liên hệ với quân đội Trung Quốc, hoặc do vi phạm nhân quyền, hoặc do hoạt động trong một lĩnh vực « trái ngược với lợi ích của Mỹ ».
Pháp đầu tư vào Trung Quốc qua trung gian Cathay Capital nhưng từ đầu tháng 1/2024, một trong những thành viên của Cathay bị Washington đưa vào danh sách trừng phạt.
Ngay bản thân Hoa Kỳ, cũng có không ít các nhà đầu tư Mỹ – như quỹ đầu tư GGV Capital – trong tầm ngắm của Hạ Viện Hoa Kỳ; « 7 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất của Mỹ đã bỏ vốn vào 4 lĩnh vực chiến lược của Trung Quốc, cộng tác với các doanh nghiệp Trung Quốc bị Washington trừng phạt ».
Trong số 1.602 dự án đầu tư của Mỹ vào Trung Quốc, có 12 thực thể Trung Quốc trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và công nghệ bán dẫn trong « danh sách đen ».
Phần lớn các hợp đồng được ký kết trước khi bộ Ngân Khố Hoa Kỳ công bố danh sách trừng phạt. Tuy nhiên nghiên cứu của viện IFRI cũng chỉ ra rằng, không ít các khoản đầu tư của Mỹ đã được đổ vào một số các doanh nghiệp nổi tiếng là hoạt động trong quỹ đạo của quân đội Trung Quốc, như Megvii, 4Paradigm, hay Intellifusion … Trường hợp một doanh nghiệp Mỹ hợp tác với 1 thực thể Trung Quốc đã có tên trong danh sách bị Hoa Kỳ trừng phạt cũng không phải là hiếm.
5 điểm kết luận
Trong phần kết luận, Mathilde Velliet đưa 5 điểm chính : Thứ nhất, trong tất cả 4 lĩnh vực công nghệ cao bà nghiên cứu, trọng lượng của đầu tư Âu, Mỹ vào Trung Quốc là « rất ít », 75 % vẫn phụ thuộc vào Bắc Kinh. Qua đó « tác động rất hạn chế » khi cho rằng đầu tư của phương Tây giúp công nghệ cao của Trung Quốc cất cánh và đây là kết luận thứ nhì của tác giả bài nghiên cứu.
Điểm thứ ba là trong 2 thập niên, châu Âu chỉ hiện diện trong 149 dự án đầu tư vào công nghệ cao của Trung Quốc, đó là một con số quá thấp để cho rằng Liên Hiệp Châu Âu đã biến Trung Quốc thành một mối đe dọa tiềm tàng …
Để trả lời câu hỏi tại sao dù với vị trí khiêm tốn Liên Hiệp Châu Âu và nhất là Hoa Kỳ lại sợ rằng đã « tài trợ cho một đối thủ » để giờ đây bị Trung Quốc bỏ lại phía sau, Mathilde Velliet tiếc rằng do thiếu một sự minh bạch cả từ hai phía (Âu – Mỹ và Trung Quốc) những dữ liệu bà khai thác không cung cấp những thông tin đáng tin cậy để giải đáp một cách nghiêm túc. Đó là kết luận thứ tư của tác giả.
Nhưng bài nghiên cứu của viện IFRI cho thấy mức độ phức tạp và chồng chéo trong mối liên hệ giữa các tập đoàn của Mỹ, của châu Âu với lại Trung Quốc. Đó là kết luận thứ 5 được tác giả nêu bật. Điểm cuối cùng này phần nào cho phép nghĩ rằng, không dễ áp dụng những sắc lệnh trừng phạt các công ty Trung Quốc khi mà số này đã gắn kết quá chặt chẽ với chính những tập đoàn công nghệ cao hàng đầu của Mỹ, với các quỹ đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ.