Chuly sưu tầm
Xuân Quê Hương
Tác Giả: Bùi Đức Tính
Thoát khỏi trại tù đã hơn ba tháng nay, Vinh vẫn còn lắm thứ ngỡ ngàng, lắm điều xa lạ. Phố xá, láng giềng bây giờ không còn giống với những kỷ niệm thân thuộc trong ký ức, trước khi cộng sản chưa chiếm đoạt miền Nam. Đất nước mất chủ quyền. Nhân dân mất quyền tự do. Láng giềng thay chủ. Chủ mới là gia đình của công an, bộ đội từ miền Bắc vào. Những người chủ cũ bị nhà cầm quyền cưởng bức phải bỏ nhà đi vào sống trong vùng kinh tế mới. Nhiều nhà coi được mắt, đối với kẻ thắng cuộc, bị tịch thu với cái lý do mơ hồ có lý lịch thân cận với chính quyền miền Nam. Có nhà, gia đình đã bỏ trốn để vượt rừng hay vượt biển tìm tự do. Xã hội cộng sản gông cùm đời sống, trói buộc tư tưởng người dân. Người quen, người chưa từng biết nhau, cùng giống nhau ánh mắt tránh né, đầy e dè, sợ sệt. Người ta như đang mang những mặt nạ có cùng một khuôn mẫu u uất với mệt mỏi, mất niềm tin, hết hy vọng ở tương lai, cùng nụ cười gượng gạo lấy có.
Thế nhưng, cái khung cảnh quanh Vinh bây giờ lại quen thuộc, không khác chi mấy so với thời còn trong lao tù; nơi chế độ cộng sản lưu đày tù nhân chính trị, được họ lấp liếm bằng chữ nghĩa mỹ miều gọi là “cải tạo”. Quanh quẩn cũng lá cờ máu, cũng chữ vàng trên băng vải đỏ, cũng cái đài phát thanh cất cao giọng chanh chua huênh hoang với những ngôn từ tuyên truyền lừa mị kỳ chướng, chít chóe chăm vào tai dân chúng, cũng đêm họp tổ để “kiểm điểm”, “đấu tranh”, “đấu tố”…
Mang xác thân trở về nơi phố cũ
Phố xưa đây, sao vẫn thấy ngỡ ngàng
Màu cờ máu vây kín mù ước vọng
Tự do đây? sao như chốn lao tù!
Có tiếng xe gắn máy dừng trước sân nhà. Nghe tiếng động cơ rất quen thuộc, Vinh bước nhanh ra cửa và thấy cái dáng lom khom ngồi trên yên xe, giữ tay lái, bơi bơi hai chân để lùi xe vào gần cửa nhà.
Nhận ra bạn mình, Vinh vui mừng gọi:
– Ê, Vũ!
Nghe tiếng Vinh, Vũ quay lại nhìn và thân mật hất mặc ra dấu rủ Vinh đi cùng với mình:
– Đi! Đi với tao… cà phê!
– Có cần tao thay đồ cho… lịch sự?
Vinh hỏi để hỏi, như theo thói quen, chứ Vũ đã biết bạn mình bây giờ chẳng còn áo quần nào đúng với cái nghĩa lịch sự như Vinh nghĩ. Vũ lấy điếu thuốc khỏi môi, mĩm cười và thư thả cùng khói thuốc:
– Mày mặc cái quần dài, vậy là lịch sự quá rồi… lên đi!
– Ừ! chờ tao nói ít tiếng cho trong nhà biết với…
Vinh ngần ngừ và quay nhanh vào nhà, nhân tiện lấy cái áo kaki vàng theo.
Bộ quân phục, mặc khi đi phép cuối tuần của thời còn học ở quân trường, bây giờ chỉ còn sót lại cái áo đã bạc màu và sờn cổ này.
Thấy Vinh trở ra, Vũ hút thêm hơi thuốc dài, rồi cho tàn thuốc xuống rãnh nước bên lề đường. Tay vặn chìa khóa mở điện, Vũ nhóng người đạp khởi động máy. Với tay nghề của Vũ, động cơ chiếc Honda từ thời còn đi học nổ máy chạy ngay.
Không chần chờ Vũ phải kêu nhắc thêm, Vinh lên ngồi trên yên xe. Vũ gát hờ chân trên cần sang số rồi quay nhìn ra phía sau lưng, hỏi Vinh:
– Được chưa?… chạy nghe mậy?!
– Ừ, chạy được rồi!
Vinh mĩm cười trả lời bạn, rồi lẩm bẩm như với chính mình:
– Bọn mình già đi mất!
Vũ nghe không rõ, vô số cho xe chạy lo cho xe rẻ nhập vào giòng xe chạy trên đường xong rồi nghiêng mặt hỏi vói ra phía sau:
– Mày vừa nói cái gì?!
Vinh nói lớn cho bạn nghe:
– Không có gì đâu. Tao chỉ nói… bọn mình già đi rồi!
– Ờ!… Ừ!
Vũ ậm ừ có vẻ cho qua, chưa hiểu hết ý Vinh nhưng cũng chẳng buồn hỏi han chi thêm, yên lặng giữ tay lái.
Thật vậy, bọn mình đã già đi mất!
Vinh chợt nhận ra, Vũ bây giờ thâm trầm hơn, thận trọng quay lại hỏi thăm chừng, xem Vinh có ngồi vững trên yên xe chưa, trước khi phóng xe chạy. Rồi nhìn lại, chính mình cũng không còn cái nhanh lẹ phóng lên yên xe ngồi như trước đây. Hai đứa đã già nhiều hơn tuổi đời chưa đến ba mươi. Qua rồi cái thời tuổi trẻ bạt mạng. Cái thời, mặc cho thằng ngồi phía sau tự biết lo thân mà giữ sao mình dính trên yên xe, đứa cầm lái không cần phải hỏi han dong dài, cứ mặc tình nhấn tay ga vút vèo phóng đi ngay.
Sắp Tết!
Dạo này, thành phố đang trong những ngày cận Tết nên càng lắm thứ đỏ, càng nhiều cờ đỏ, càng nhiều băng vải đỏ. Chúng nó được căng ngang qua lộ; treo trên cột đèn, phất phơ dọc theo lề đường, máng trên tường vách, cắm trước cửa các trụ sở và cơ quan,… Khắp nơi nơi, chằng chịt những thứ chữ nghĩa rất là nặng mùi “cách mạng” của nhà cầm quyền. Ngó đâu đâu cũng thấy những câu chữ tuyên truyền, tương tự như nhau, lập đi lập lại.
Những sáo ngữ “mừng đảng – mừng xuân”, “đảng đã cho ta mùa xuân”… không mang lại chút gì hân hoan, vui tươi của mùa xuân. Trái lại, chúng nó như những bệt sơn man trá tô đỏ, phết vàng lên những thi thể dân lành bị lực lượng cộng sản “giãi phóng” bằng cách chôn sống hay giết chết bằng những kiểu cách vô cùng dã man trong các hố chôn người tập thể, năm Tết Mậu Thân 1968. Chỉ trong hai mươi sáu ngày tấn công và chiếm đóng, thảm sát của cộng sản đã làm cả thế giới kinh hoàng ghê tởm. Hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Hơn bốn ngàn nạn nhân bao gồm đủ nữ, nam, từ bô lão đến trẻ sơ sinh. Chỉ riêng trong các hố chôn người ở khe Đá Mài, người ta đã tìm thấy gần năm trăm thi thể.
Những biểu ngữ quanh Vinh, cho dù có được tạo dựng cầu kỳ trịnh trọng, chúng nó cũng bê bết, dối trá một cách thật là trơ trẽn. Người ta không thể nào quên tội ác của cộng sản từ khi cướp chính quyền đến nay; từ chính sách cải cách ruộng đất bất nhân, đến những cuộc đấu tố hành quyết vô cùng man rợ từ Bắc vào Nam.
Xuân về, nhà cầm quyền cộng sản lại tung hô chào đón “Đại Thắng mùa Xuân”!
Cái “đại thắng” ngày 30 tháng 4 năm 1975, của những kẻ đào đường, phá cầu, giật mìn xe đò, đốt trường học, pháo kích chợ, nhà dân,… là cơn giông tố hãi hùng phủ trùm triền miên trên thân phận của quê hương và dân tộc!
Trong khi công lý và tự do là hai danh từ mang ý nghĩa cao đẹp của quốc gia, nhân loại đã hy sinh biết bao xương máu để bảo vệ công lý và tự do. Ngược lại, những con người cộng sản vốn độc tài, rất ghét sợ công lý, căm thù tự do. Cho nên, khi vừa cưỡng chiếm miền Nam họ liền cho thay đổi hai con đường Công Lý, Tự Do ở Sài Gòn lại thành đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng Khởi. Khởi nguồn cho biết bao câu thơ mỉa mai truyền miệng trong dân gian miền Nam, nổi bật nhất là hai câu ghi lại trang lịch sử đen tối nhất của dân tộc:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý,
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.
Thế mà hàng năm họ vẫn rình rang ăn mừng cái “đại thắng” man rợ ấy, trên nỗi khổ nhục xót đau của hàng triệu tù nhân khổ sai trong các trại tù và gia đình thân nhân bị trù dập đoạ đày trong sinh kế. Nhân dân miền Nam chân chính kém may mắn, cũng chẳng khá hơn bao nhiêu, họ cũng bị đảng đạp vùi xuống tận đáy bùn đen của xã hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu “lao động là vinh quang” của nhà cầm quyền cộng sản thực chất chính là chánh sách cưởng bức, là phương cách bóc lột mồ hôi, máu lệ của người dân.
Sau ngày 30-4-1975, Ginetta Sagan, một ký giả Âu Châu, đã viết là ‘Dưới chính sách khắc nghiệt của cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên’. Câu viết ngắn gọn, tuy rất dí dỏm của bà Sagan đã diễn tả được một thực trạng rất bi thảm của dân dộc Việt Nam trước thảm họa cộng sản. Người ta cuống quýt tìm đủ mọi cách để trốn thoát gông cùm của lực lượng tự xưng là “cách mạng” là “giãi phóng dân tộc”.
Gần triệu người đã liều mình trốn đi. Người ta trốn đi mà không biết chắc được mình đi đâu, sẽ đến đâu; miễn sao thoát khỏi ngục tù cộng sản. Hầu hết đều không hề có kinh nghiệm về hải hành, vượt rừng sâu. Người ra đi biết và chấp nhận những khó khăn, kể cả nguy hiểm đang chờ đợi họ. Trong ba người vượt biên tìm tự do thì chỉ có một người đến nơi an toàn, một người chết và một người sẽ bị bắt lại và đi tù.
Họ là những người chậm chân trong những ngày đầu di tản, không được may mắn theo các tàu dân sự vận chuyển lớn như Trường Xuân, các tàu chiến của hải quân, chiến hạm USS Midway để lánh nạn cộng sản. Hoặc họ chính là những người còn chút hy vọng vào những con người cộng sản cũng còn chút lương tâm và sáng suốt không nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không đội trời chung và họ sẵn sàng cộng tác với nhà cầm quyền cộng sản để cùng xây dựng đất nước trong Hòa Bình của Dân Tộc. Nhưng rồi nhân dân miền Nam đã lầm, sau thời gian lầm than tôi mọi cho chế độ cộng sản bất nhân. Họ đã mất hết, từ tài sản đến quyền tự do và cả phẩm giá con người, dưới chánh sách trả thù vô cùng tàn bạo của cộng sản. Người ta liều mình, chỉ còn biết cầu mong vào số mệnh khi vượt trốn đến đất nước Tự Do, nơi nào cũng được, miễn là thoát khỏi điạ ngục cộng sản Việt Nam, tạo thành một cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, người dân chỉ ra đi khi đã cùn đường, không còn cách nào có thể sinh sống tại quê hương của mình.
Ðây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình!
Chính đảng cộng sản đã cướp đoạt mùa xuân!
Mùa xuân đã không còn về trong lòng người miền Nam uất hận kẻ bạo quyền!
Các băng vải đỏ và màu cờ của đảng cộng sản khát máu nối nhau và cuốn vụt qua theo làn gió lùa bên tai Vinh, để rồi lại hiện ra và nối nhau bất tận!
Vinh nhắm mắt, không muốn đọc, không muốn nhìn thành phố thân yêu đang nhuộm đỏ. Vinh muốn lừa dối trí óc mình, để tìm về một thời yên ấm trong tình người. Nhưng tiếng người la réo thô tục, tiếng bánh xe nghiến bườn trên mặt lộ, tiếng động cơ gào rú, tiếng còi xe inh ỏi,… vây giữ Vinh trong cái hiện thực đầy chán chường. Chừng như những cơn bực dọc, bất mãn với chế độ cầm quyền trong lòng người dân đang trút đỗ vào đấy cho vơi, cho nhẹ bớt đi.
– Ê,… ngủ gục té chết nghen mậy!
Tiếng Vũ gọi như hét lên để đánh thức Vinh.
Vinh cười trấn an:
– Ngủ ghê gì… tao mà ngủ đã văng xuống đường, chờ đến mày gọi thì muộn rồi!
– Chứ sao mày yên lặng quá, tao ngó chừng thấy như mày đang nhắm mắt?!
– Không muốn thấy… nên tao nhắm mắt!
Vũ chưa hiểu được ý bạn, nhưng không hỏi thêm, chỉ ân cần dặn dò:
– Ừ!… không chết trong tù, đừng có dìa đây mà ngủ gục rồi té chết,… lảng nhách!
– Đúng vậy… Sắp tới chưa?
– Mở mắt ra đi mày!… cà phê đây!
Vũ thân mật bảo bạn và bớt tốc độ quanh xe vào sân quán.
Đầu sông ngoài kia có chợ nhóm nên xô bồ, ồn ào. Chỉ chạy qua vài trăm mét, khung cảnh nơi quán cà phê khác biệt, thật yên bình. Sân quán rộng lớn. Chỗ đậu xe thoải mái, tuỳ ý khách. Bàn ghế thấp, bằng gỗ và nhựa đơn sơ, tạp nhạp; bày rải rác dưới bóng mát của các tàng cây trong sân. Vũ chọn cái bàn gần bờ sông, và dựng xe kế bên. Vinh khoác thêm cái áo cầm theo lên người, che bớt thân hình với cái thung “ba lỗ”, nhưng không gài nút cho thoáng mát, rồi ngồi xuống với bạn.
Con tạo xoay dần, chồng chất thêm tuổi đời, không dung thứ một ai. Ông chủ quán trông già yếu hẳn ra. Cô con gái xinh trẻ của mấy năm trước đây, trước khi miền Nam bị cộng sản cai trị, nay có vẻ mỏi mệt của một thiếu phụ nặng gánh gia đình trong xã hội chủ nghĩa ác nghiệt. Khung cảnh của quán không thay đổi chi mấy. Cái khác biệt rõ rệt nhất bây giờ là sự trống vắng, thiếu mất lời ca tiếng nhạc. Những tình khúc của Từ Công Phụng, Ngô Thuỵ Miên, Vũ Thành An,… đều thuộc vào nhạc miền Nam; loại nhạc bị nhà cầm quyền cộng sản cấm đoán. Bọn họ cho rằng tất cả những gì ở miền Nam tự do, từ con người đến văn hoá đều xấu xa, đều cần phải “giải phóng” triệt để. Thơ văn, âm nhạc miền Nam là “đồi trụy”, bị thu gom tiêu huỷ, bị cấm đoán. Quán đã chọn cái yên lặng. Cái yên lặng dễ chịu hàng triệu triệu lần hơn phải nghe cái thứ chói tai nhức óc của loại nhạc gọi là “cách mạng”. Ly cà phê với hương vị độc đáo của Café Du Monde, lọt vào trong cái quán nhạc “cách mạng” cũng biến ngay thành cái chất uống đắng nghét, khét ngẹt. Với cái loại nhạc vô duyên ấy, chắc gì đã có những giòng thơ tình “Em Hiền như Ma Soeur” đầy lãng mạn:
“Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa
Như mưa đời phất phơ, chắc ta gần nhau chưa?
Tay ta từng ngón tay, vuốt tóc em lưng dài
Đôi ta vào quán trưa, nhắc nhau tình phôi pha.”
Không riêng gì nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên, những chàng trai trẻ như Vũ và Vinh cũng sẽ không hứng thú gì để nghĩ đến chuyện đưa em vào cái quán trưa nào đó đang léo nhéo cái thứ âm nhạc gọi là “cách mạng”, để tình tứ “nhắc nhau tình phôi pha”
Vinh lấy điếu thuốc rồi đẩy bao thuốc hút sang mời bạn. Hớp miếng cà phê, Vinh lắng nghe vị đắng của cà phê và khói thuốc thật nồng ấm bên tình bạn. Ngó trông ra con đường dẫn vào quán, vẫn chưa thấy bóng dáng Phát. Thường khi đi uống cà phê như thế này, có Phát đến. Vinh hỏi thăm:
– Phát đâu?… sao chưa thấy đến?
Cũng như Vũ, Phát cùng là bè bạn từ trung học, nhưng Phát và Vinh còn chung đại đội trong quân trường. Trong xả hội công an rình rập, bị bắt bớ tù tội vô cớ, không mấy người muốn tiếp xúc thân mật với những người tù chính trị như Vinh. Chỉ còn ba thằng thường ngồi với nhau trong quán cà phê.
Hít hơi thuốc dài, Vũ trầm tư một lúc:
– … chắc nó đi rồi!
Vinh nghe chơi vơi mất mát, ngẩn ngơ dò hỏi thêm:
– Nó đi hồi nào? đến chưa?
– Tao chưa rõ nó đi hôm nào. Hồi nãy, định tấp vô rủ nó đi uống cà phê thì thấy hai thằng công an ngồi hút thuốc ngoài hàng ba nhà nó… tao vọt thẳng tới mày…
Rất nhiều lý do bị công an chiếm lấy nhà. Nhà có người vượt biên là một lý do thường thấy nhất. Vinh thẫn thờ:
– Ừ!… chắc vậy rồí… cầu mong cho nó đến nơi bình an!
– Mùa này biển bắt đầu êm…
Vũ tìm một lý do để cùng Vinh an tâm hơn về bè bạn. Nhưng cả hai đều biết, tin tức nhận được về vượt biển lắm thương đau. Cái giá của tự do đánh đổi bằng chính mạng sống của mình và người thân. Ai cũng biết, nhưng đều chấp nhận khi ra đi.
Tiếng máy tàu văng vẳng. Vinh ngó theo ánh mắt Vũ ra ngoài sông.
Gió từ giòng sông thoáng nhẹ, man mát mùa xuân. Nước lớn đầy, màu phù sa trải lên trên hai bên bờ, làm con sông trước quán trông rộng mênh mông.
Chiếc ghe chở nặng, trầm mình chầm chậm xuôi theo giòng nước. Tiếng máy thư thả êm đềm, như không muốn khuấy động yên bình. Ghe chở hàng, mui gỗ đóng kín, dài đến nửa lòng khoang. Dưa hấu chất vun đầy ra đến tận mũi ghe. Người đàn bà đứng kềm cái máy đuôi tôm gắn cặp phía sau ghe, giữ hướng tàu chạy. Dưới khoanh bóng mát nhỏ hẹp của mái che, ông chồng ngồi bẹp trên nóc mui vừa lua miếng cơm, vừa trông chừng hai đứa con cùng sông nước với vợ. Đứa con gái lớn vừa ăn, vừa đút cơm cho em. Đời thương hồ, lấy ghe làm nhà, quanh năm đây đó để mưu sinh. Đời dập dềnh suốt tháng này sang năm khác, mấy đứa nhỏ học hành chữ được, chữ mất, sao không khỏi chạnh lòng. Cuộc sống trên sông thiếu thốn đủ bề, gặp khi ốm đau không kịp đưa lên bờ cấp cứu. Những con sông chở nặng phù sa mang đến nguồn sống cho hàng vạn người, nhưng nó cũng cướp đi không biết bao nhiêu người chồng, người cha, và cả những đứa trẻ không may… Thường thì đời cha lại nối tiếp đời con cứ đeo mang nghiệp trôi dạt trên sông nước. Cuộc đời thương hồ nay đây, mai đó, không biết đâu là bến bờ, lênh đênh như cánh lục bình trên sông. Hình ảnh ghe thuyền bây giờ còn là ước mơ vượt thoát chế độ cộng sản bất nhân, nhắc nhớ biệt ly tan tác trong triệu con tim. Mùa biển êm hay biển động, người ta vẫn ra đi. Giờ này đây, bao con thuyền mong manh đang đưa thuyền nhân lênh đênh vượt đại dương tìm tự do.
– Giờ còn tụi mình…
Vũ nói lầm thầm rồi bỏ lửng, nhưng Vinh hiểu ý bạn mình. Chọn con đường cùn phải ra đi, rời bỏ quê hương cùng thân bằng quyến thuộc như một lần đi là một lần vĩnh biệt, sao không khỏi đớn đau. Nghìn trùng cách biệt, biết bao giờ được trở về đón xuân quê hương. Cả hai yên lặng, lòng thẫn thờ quyện theo khói thuốc và chợt nghe khói thuốc vương cay đôi mắt.
Vinh nhìn theo theo bạn mình, nơi bóng dáng chiếc tàu ngoài sông xa dần, lòng chập chùng với lắm ưu tư.
Xuân sắp về!
Mùa xuân về trong không gian, trong mùa màng, nhưng xuân quê hương không còn, không về trong lòng người đã mất quyền làm người!
Ven theo hai bên bờ sông, những đám lục bình còn vướng víu với hàng lau, lao chao nhấp nhô theo gợn sóng đùa vào. Những mảng lục bình ngoài khơi, lững lờ theo vận nước đang đổi chiều trôi ra cửa biển…