Tấn bi kịch của bán đảo Crimée

Đăng ngày: 30/11/2022

\"\"
\"\"
(Ảnh minh họa). Thành phố Sébastopol, bán đảo Crimée. © Etienne Bouche

Minh Anh

Giới truyền thông gần đây quan tâm nhiều đến ý định chiếm lại bán đảo Crimée của Ukraina, nhất là kể từ sau thành công giành lại thành phố Kherson. Đây chính là chính sách đã được chính phủ Ukraina tuyên bố kể từ khi mất bán đảo Crimée vào tay Nga năm 2014.

Tuy nhiên, trên trang mạng Responsible Statecraft, Nicolai Petro, giáo sư chính trị học trường đại học Rhode Island, khi điểm lại lịch sử ngắn gọn về mối quan hệ khó khăn của bán đảo với chính quyền Kiev trước năm 2014, nhận định, ý đồ trên của Ukraina là vô cùng khó. Nicolai Petro còn là tác giả tập sách sắp xuất bản vào tháng 12/2022, có tựa đề : « The Tragedy of Ukraine: What Classical Greek Tragedy Can Teach Us About Conflict Resolution » (tạm dịch là Tấn bi kịch Ukraina : Bi kịch Hy Lạp cổ điển nào có thể dạy chúng ta về cách giải quyết xung đột). RFI Tiếng Việt xin giới thiệu bài viết.

**********

Trước tiên, tác giả nhắc lại : Năm 1954, bán đảo Crimée được chuyển giao từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga cho Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina như là một « món quà » dành cho nhân dân Ukraina nhân kỷ niệm 300 năm Hiệp ước Pereyaslavl Rada về việc Ukraina gia nhập Nga. Tuy nhiên, điều ít được biết đến, là vào tháng Giêng năm 1991, khi Liên bang Xô viết tan rã, chính quyền bán đảo Crimée quyết định cho tổ chức trưng cầu dân ý về việc khôi phục quyền tự trị của Crimée.

Sự do dự

Gần 84% người dân đăng ký tham gia cuộc trưng cầu dân ý, và có đến 93% lá phiếu ủng hộ cho quyền chủ quyền của Crimée. Điều này đã mở ra cánh cửa cho khả năng tách Crimée khỏi cả Liên Xô lẫn Cộng hòa Chủ nghĩa Xô viết Ukraina, do đó có khả năng cho phép bán đảo tham gia Hiệp ước Liên minh mới sau này được Mikhail Gorbachev đề nghị với tư cách như là một thành viên độc lập.

Ngày 12/02/1991, Xô viết tối cao của CHXHCN Xô viết Ukraina (cơ quan lập pháp chính của nước này) đã công nhận những kết quả đó. Ngày 04/09/1991, Xô viết tối cao của Cộng hòa Crimée Tự trị (ACR) hiện nay tuyên bố quyền chủ quyền của vùng, nhưng nói thêm rằng họ có ý định hình thành một quốc gia dân chủ có chủ quyền bên trong Ukraina. Trong bối cảnh chủ quyền khu vực này, 54% người dân Crimée đã bỏ phiếu vào tháng 12/1991 ủng hộ nền độc lập Ukraina, với tỷ lệ tham gia bỏ phiếu là 65%, mức thấp nhất so với bất kỳ vùng nào khác tại Ukraina.

Tuy nhiên, từ điểm bắt đầu này mà cả hai phía đã có những diễn giải hoàn toàn đối nghịch nhau về ý nghĩa chủ quyền của Crimée là gì – Simferopol, thủ phủ của Crimée muốn có chủ quyền – trong khi thủ đô Kiev của Ukraina thì muốn đấy là một hình thức tự trị yếu ớt trong một quốc gia thống nhất mà ở đó, ngôn ngữ và văn hóa Ukraina phải là một chuẩn mực.

Ngày 05/05/1992, Xô viết Tối cao của ACR tuyên bố hoàn toàn độc lập khỏi Ukraina và thông báo một cuộc trưng cầu dân ý mới sẽ được tổ chức vào tháng 8/1992. Nghị viện Ukraina tuyên bố nền độc lập của Crimée là bất hợp pháp và cho phép tổng thống Kravchuk sử dụng mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn điều đó. Sau hai tuần bế tắc, nghị viện Crimée từ bỏ tuyên bố độc lập để đổi lấy việc đàm phán chuyển giao một phần quyền lực từ Kiev cho Simferopol. Bán đảo Crimée được thuận có tổng thống và thủ tướng của riêng mình cũng như quyền tổ chức trưng cầu dân ý riêng trong vùng.

Cuộc khủng hoảng đã được đẩy lui nhưng chỉ là tạm thời, vì đã không giải quyết được vấn đề cốt lõi – khát vọng của một bộ phận lớn người dân Crimée muốn là một phần của Nga hơn là Ukraina. Do đó, vấn đề này lại bùng lên vào năm 1994, khi Yuri Meshkov và đảng « Khối Nga » của ông giành được quyền lãnh đạo Crimée trên nền tảng ủng hộ hợp nhất với Nga. Một lần nữa, cuộc khủng hoảng mới chớm bắt đầu đã bị ngăn chặn vào ngày 16-17/03/1995, khi tổng thống Ukraina Leonid Kuchma, sau khi tham khảo ý kiến tổng thống Nga Boris Yeltsin và nhận được sự ủng hộ của ông, đã cử lực lượng đặc nhiệm Ukraina để bắt giữ chính phủ Crimée. Meshkov bị trục xuất về Nga, và cùng ngày, Rada – Quốc hội Ukraina bãi bỏ Hiến pháp Crimée và bãi chức vụ tổng thống Crimee.

Phải mất hơn ba năm sau một mới có một Hiến pháp mới cho Crimée. Văn bản này tuyên bố Ukraina là ngôn ngữ chính thức tại Crimée và quy định Crimée là một phần lãnh thổ không thể chuyển nhượng của Ukraina. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn đáng ngạc nhiên năm 2018, thủ tướng cuối cùng tại Crimée do Ukraina bổ nhiệm, ông Anatoly Mogiloyv giải thích, Crimée luôn là « một vùng thuộc Nga » và nói rằng ông đã nhiều lần cảnh báo Kiev là nếu không trao thêm quyền tự trị cho bán đảo, khu vực này sẽ ngả theo Nga.

Người dân Crimée và khát vọng về với Nga ?

Kết quả cuộc trưng cầu dân ý ngày 16/03/2014, tuy đặt ra nghi vấn chính đáng về những điều kiện bất thường trong việc tổ chức bỏ phiếu, nhưng chúng hầu như không gây ngạc nhiên. Anatoly Karlin, dễ dàng tổng hợp một danh sách 30 cuộc thăm dò công luận, được thực hiện trong giai đoạn 1994-2016. Kết quả là 25 cuộc thăm dò cho thấy ý kiến thân Nga chiếm đến hơn 70%, còn tỷ lệ thân Nga ở mức 25-55% là chỉ có trong 5 cuộc thăm dò. Natalia Kiselyova, một trong số các nhà xã hội học hàng đầu của Crimée nói rằng tỉ lệ người dân Crimée « khao khát nước Nga » trong giai đoạn 1991-2014 luôn trên mức 50%, trong khi mức ủng hộ chủ nghĩa khu vực Crimée chưa bao giờ thấp hơn 55-60%.

Từ năm 2014, một số cuộc thăm dò do phương Tây tài trợ cũng cho thấy mức độ ủng hộ hợp nhất với Nga cao. Hơn nữa, cuộc khảo sát do Pew thực hiện vào tháng 4/2014 cho thấy có đến 91% người dân Crimée tin tưởng cuộc trưng cầu dân ý năm 2014 là tự do và công bằng. Tháng 6/2014, thăm dò của viện Gallup ghi nhận gần 83% người dân Crimée (trong đó 94% là từ người Nga và 68% từ người Ukraina) nghĩ rằng trưng cầu dân ý năm 2014 phản ảnh lập trường của người dân. Cuộc khảo sát mùa xuân năm 2017 do Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Đông Âu, đóng trụ sở tại Đức, cũng nhận thấy, nếu được yêu cầu bỏ phiếu lại một lần nữa, 79% trong số họ tuyên bố họ vẫn sẽ làm điều tương tự.

Đáng chú ý nhất là sự thay đổi thái độ của tộc người Tatars tại Crimée. Một báo cáo của Foreign Affairs năm 2020 quan sát thấy tỷ lệ người Tatars nghĩ rằng, « là một phần của Nga sẽ giúp họ có cuộc sống tốt hơn » đã tăng vọt từ mức 50% trong năm 2014 lên 81% vào năm 2019.

Nhiều chính khách hàng đầu và gương mặt văn hóa của Ukraina, bao gồm cả nhà văn Vasyl Shklyar, Yuri Andrukhovych, và cựu tổng thống Ukraina Viktor Yushchenko đã xem Crimée như là một kẻ xa lạ với Ukraina và miêu tả chủ nghĩa đa văn hóa của khu vực như là một mối đe dọa cho chủ nghĩa dân tộc Ukraina mà họ đang nỗ lực tạo dựng. Sau năm 2013, nhiều người đề xuất nên để cho vùng đi theo con đường của riêng mình. Tuy nhiên, theo Boris Babin, đại diện thường trực của tổng thống Poroshenko tại Crimée, nguy cơ của việc làm như thế hiện nay là « nếu chúng ta không giải phóng Crimée và phía Đông về mặt quân sự, thì toàn bộ Ukraina sẽ trở thành miền Đông và Crimée ».

Do đó, lịch sử của Crimée từ năm 1991 đưa ra một minh chứng sống động là, chủ nghĩa dân tộc có thể khiến giới tinh hoa quốc gia tự huyễn hoặc mình như thế nào. Biết rõ nguyện vọng tự trị lâu đời của khu vực, giới chính trị gia theo chủ nghĩa dân tộc tại Kiev đã chọn phớt lờ hay trấn áp chúng.

Tuy nhiên, vấn đề tương tự cũng có thể nảy sinh với Nga, cho đến nay, nước này vẫn cố gắng dàn xếp tránh được điều này thông qua việc pha trộn giữa chủ nghĩa thực dụng và đầu tư ồ ạt vào các lĩnh vực mà người dân địa phương quan tâm. Đối với tộc người Tatars ở Crimée, một sắc lệnh ban hành ngày 21/04/2014 cho phép phục hồi những người bị trục xuất khỏi Crimée, tài trợ liên bang bổ sung cho việc mở rộng giáo dục bằng tiếng Tatars, xây dựng hơn 150 nhà thờ Hồi giáo mới và công nhận ngôn ngữ Tatar là chính thức ở Crimée, điều chưa từng có dưới sự cai quản của Ukraina.

Nhưng các nhà phê bình phản bác rằng Nga chỉ vờ giải quyết mối bận tâm của tộc người Tatars ở Crimée. Trên thực tế, theo họ, số lượng người Tatars trong bộ máy chính quyền Crimée đã giảm mạnh đến 10 lần, bởi vì Mejlis, Hội đồng người Tatars tại Crimée đã bị đặt ngoài vòng pháp luật, và người Tatars phải tranh cử trong các đảng khác nhau. Tuy nhiên, việc một số nhà lãnh đạo Tatars sống lưu vong ở Ukraina ủng hộ chính sách của Kiev, bao gồm cả việc trục xuất hàng trăm nghìn cư dân Nga trên bán đảo có lẽ đã không giúp ích được gì cho tiếng tăm của Mejlis tại Crimée.

Rõ ràng, việc để mất Crimée bắt nguồn trực tiếp từ việc sáp nhập bất hợp pháp của Nga, nhưng, như vị tổng thống Ukraina đầu tiên, Leonid Kravchuk thừa nhận năm 2019, chúng được nuôi dưỡng bởi « những cuộc tấn công vô cùng hung hăng » của một khu vực [Garlicia ở Tây Ukraina] trong nhiều năm liền, vốn dĩ thường tin rằng hệ tư tưởng của họ là đúng đắn nhất, cần thiết nhất cho dân tộc Ukraina, và điều đó vấp phải sự phản đối của mọi vùng khác của Ukraina, có một hệ tư tưởng khác, hoặc có thể là những quan điểm khác, chính xác hơn là về tình hình tại Ukraina.

Để lấy lại lòng trung thành của họ, Kiev phải thừa nhận vai trò các chính sách của chính họ, đáng chú ý là Ukraina hóa bằng vũ lực, góp phần làm rạn nứt xã hội, hoặc phải đối mặt với viễn cảnh rằng việc thu hồi các vùng lãnh thổ sẽ dẫn đến một chu kỳ bạo lực mới, tại một thời điểm nào đó trong tương lai.

Bài Liên Quan

Leave a Comment