Tưởng niệm danh ca Thái Thanh (1934-2020)
1-Ai mang bụi đỏ đi rồi? – Từ Facebook Larry De King
Hôm qua 17 tháng ba là 1 tin buồn lớn: đại danh ca Thái Thanh qua đời, thọ 86 tuổi. Thái Thanh là giọng hát phi thường, diễm tuyệt của nền tân nhạc Việt mà có lẽ lâu lắm mới có người vượt qua. Có vô số lời khen tụng bà từ những bậc đại thụ, tài danh trong làng văn nghệ sĩ Việt, kể cả những nhà nghiên cứu phê bình âm nhạc. Ở đây chỉ xin thêm rằng bà là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh hoa cổ nhạc xứ bắc và âm nhạc đương đại phương tây, giữa đậm đà hồn quê và vẻ đẹp xứ người qua những bản dân ca, tình ca họ Phạm.
Nếu nói đến Khánh Ly phải nhắc đến TCS. Cũng vậy, Thái Thanh sinh ra để hát nhạc Phạm Duy, và không ai có thể hát hay hơn bà – một giọng ca lẫy lừng hiếm có của nền tân nhạc Việt. Khánh Ly từng nói, Diva trên thế giới không nhiều, Việt Nam càng hiếm, nhưng nếu có thì chỉ một mình Thái Thanh xứng đáng với danh hiệu đó. Do vậy, Khánh Ly luôn xem bà là ngọn hải đăng của mình.
Thái Thanh, giọng ca không có tuổi. Vài năm trước, nhiều người từng thấy một cụ già tóc trắng như sương, vẫn điệu đàng tươi vui trên sân khấu. Đặc biệt giọng hát vẫn thánh thót yêu kiều như người thiếu nữ tuổi đôi mươi.
Sau 1975 chính quyền CS mời bà cộng tác nhưng đã bị khước từ, dù đời sống lúc bấy giờ vô cùng khó khăn. Từ đó bà bị cấm hát cho đến năm 1985 bà sang Mỹ. Không chỉ có tài năng xuất chúng, bà còn là 1 nhân cách đáng kính trọng.
Ngoài ra, bà còn là bóng dáng của người Hà Nội xưa, người Tràng An quý phái, thanh lịch trong giọng nói, cử chỉ và phong cách. Đối chiếu với những nhà giàu Hà Nội mới nổi hiện nay để thấy 1 sự tương phản đến đau lòng.
Vĩnh biệt và cầu mong bà yên nghỉ bên kia thế giới.
2 – Từ Facebook Binh Bong Bot
Hơn chục năm cuối đời, Thái Thanh phải sống cùng căn bệnh Alzheimer. Đã có những lúc cô không nhớ gương mặt của những người thân thương nhất, nhưng lời bài hát thì hiếm khi quên. Có thể nói: lịch sử tân nhạc Việt Nam chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi Thái Thanh xuất hiện. Phạm Duy từng nói: nếu không có Phạm Duy thì theo thời gian sẽ có một Phạm Duy khác, nhưng Thái Thanh thì tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả.
Sau Thái Thanh, Lệ Thu và Khánh Ly xuất hiện. Khánh Ly, với chất giọng trời phú tuyệt hảo, khi lên rất cao, khi xuống rất trầm, hát tình ca thì lả lơi, hát phản chiến thì phẫn nộ căm hờn, chính là chiếc hỏa tiễn đưa nhạc Trịnh Công Sơn lên tột đỉnh. Lệ Thu, với kỹ thuật điêu luyện đến xuất thần nhập hóa, chuốt cho đến độ không còn một chữ nào là không thể đẹp. Một là thiên tài, một là khổ luyện, đã thực sự ở một đẳng cấp hoàn toàn khác so với phần còn lại. Họ là hai ngôi sao sáng chói nhất trong làng âm nhạc xuyên qua hai thế kỷ.
Nhưng cả hai đều phải thừa nhận: Thái Thanh ở một tầm vóc khác. Họ là hai ngôi sao sáng nhất, nhưng Thái Thanh lại là mặt trăng.
Nhà văn Thụy Khuê viết rằng: “Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Ðổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ”.
Giọng ca của Thái Thanh là tiếng lòng của người Việt, là tiếng mẹ ru con, là tiếng tình nhân ru nhau, là tiếng vọng khổ đau của “em hỏi anh bao giờ trở lại”, là niềm tự hào “tôi yêu tiếng nước tôi”, là thiền ca của Phạm Thiên Thư, là dân ca của trèo lên cây bưởi hái hoa… Phạm Duy gọi đó là “một giọng hát diễm tuyệt” với tất cả hạnh phúc và khổ đau, trong chiến tranh và hòa bình, trong vinh quang và khổ nhục, trong hy vọng và tuyệt vọng.
Thái Thanh là ca sĩ duy nhất mà ở tuổi thất thập, hát “Tuổi 13” vẫn thấy tràn đầy nét tinh nghịch hồn nhiên, hát “Ngày xưa Hoàng Thị” vẫy đầy ngây thơ trinh khiết. Vì giọng ca ấy không biết già, giọng ca không có tuổi, giọng ca đã “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”, đã chứng kiến những bi kịch lớn nhất, khủng khiếp nhất của gia đình mình, đất nước mình, dân tộc mình.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói về bà: “Nếu ta nghiêng mình lệch đi một tí, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc năm ngàn năm về sau”.
Thần tượng lớn của tôi và nhiều người đã rời cõi tạm, nhưng giọng ca của cô sẽ vọng mãi tới thiên thu.
3- Thế bây giờ, bà đã đi xa… – Từ Facebook Mạnh Kim
Nhạc sĩ Bảo Chấn kể với tôi một chuyện về Thái Thanh. Lần đó, Bảo Chấn – một nhạc sĩ trẻ vừa tốt nghiệp khoa dương cầm Nhạc viện Sài Gòn hạng xuất sắc – còn rất “hăng”. Khi đệm cho ca sĩ, ông thường nổi hứng “phăng” những đoạn gian tấu lả lướt bất tận. Lần đệm cho đàn chị Thái Thanh cũng vậy. Ông cũng vuốt miên man như mây trôi gió thoảng trên phím. Đợi nhạc sĩ Bảo Chấn dứt, rồi với phong cách nhẹ nhàng và kiêu kỳ đúng “kiểu… Thái Thanh”, bà quay sang hỏi, “Thế bây giờ… anh đàn hay tôi hát nhỉ”…
Thái Thanh là vậy. Khi hát, bà không chỉ hát. Đúng ra chỉ cần nghe bà hát. Không cần đệm. Không cần đàn. Bà không phải là ca sĩ. Bà kể chuyện bằng giai điệu. Bà ẻo lả. Bà điệu đàng. Bà đùa cợt. Bà khóc than. Bà tỉ tê. Bà vuốt ve. Bà mơn trớn. Bà hờn dỗi. Bà tươi vui. Bà tự sự. Bà là kịch sĩ xuất chúng diễn bằng phong cách hát có một không hai. Chưa hề có phiên bản Thái Thanh thứ hai trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Bà là duy nhất. Và có lẽ chưa có ai hát tiếng Việt đẹp bằng bà. Chưa ca sĩ nào phát âm tiếng Việt chính xác bằng Thái Thanh. Hãy nghe thật kỹ và thật chậm những từ dấu hỏi và ngã được phát ra từ bà. Như Phạm Duy, con người Thái Thanh là kết hợp của tinh túy văn hóa Việt Nam. Có lẽ chưa có ca sĩ nào vừa sang trọng kiêu kỳ vừa đậm nét chân quê hồn Việt bằng Thái Thanh.
Năm 1971, khi giới thiệu cuốn số bốn băng Tơ Vàng với giọng hát Thái Thanh do nhạc sĩ Văn Phụng thực hiện, nhà văn Mai Thảo viết:
“Hát, với Thái Thanh, là một tình yêu muốn cháy đỏ một đời, phải được làm mới từng ngày. Lối hát, cách hát, từ kỹ thuật trình bày một ca khúc đến cái khó nhận thức hơn, vì ở bên trong, nhưng không phải là không thấy được, là trạng thái tâm hồn… Nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận định về tiếng hát Thái Thanh như một giọng ca không có tuổi. Táng láng, hồng tươi, không quá khứ. Nhận định này chỉ nói đến một sự thực hiển nhiên. Tốt tươi và phơi phới, bay bổng và cao vút, tiếng hát Thái Thanh hai mươi năm nay là một hơi thở bình minh, ở đó không có một dấu vết nhỏ của tháng năm và quá khứ đè nặng. Đã là một giòng sông đầy, nó vẫn còn là cái thánh thót, cái trong vắt của một giòng suối, nước reo thủy tinh, sỏi lăn trắng muốt. Như một bông hoa không nở và tàn trong một buổi sáng, mà hoa đã mãn khai, vẻ hàm tiếu vẫn còn. Tiếng hát trẻ trung vĩnh viễn, không tuổi, không quá khứ là vì nó tạo mãi được cho người nghe cái cảm giác mát tươi đầu mùa như vậy”.
…
Thái Thanh và Phạm Duy – Nguồn: internet..
Bà là ca sĩ duy nhất trước 1975 tại Sài Gòn, nơi có vô số ca sĩ tài năng đỉnh cao, được mệnh danh là “Tiếng hát vượt thời gian” (do một hãng đĩa đặt). Điều khiến tiếng hát của bà vượt thời gian, thậm chí không gian, là khả năng thiên phú cộng với tài năng truyền cảm cảm xúc của bà. Cũng với một nốt ấy, bà biến nó thành một “nốt riêng của Thái Thanh”, như thể bà muốn hỏi (hãy phát âm chữ “hỏi” theo giọng Thái Thanh): “Thế bây giờ tôi hát như thế quý vị nghe có được chưa?”.
Bà hát “nghe có được chưa” mà không cần học qua bất kỳ trường lớp thanh nhạc nào. Nhạc lý và xướng âm bà học từ các sách mà anh của bà, nhạc sĩ Phạm Đình Chương, đặt mua từ Pháp. Bà miệt mài tự học và tự tìm cách nâng cao chất giọng đặc biệt của mình. Và để trở thành một Thái Thanh không có phiên bản thứ hai, bà từng nói: “Điều đầu tiên tôi muốn nói là người ca sĩ phải biết yêu tiếng nói của nước mình, phải yêu tiếng Việt của mình. Người ca sĩ còn phải yêu đất nước mình nữa. Khi trong bài hát có nói đến những xứ sở, những vùng nào đó trên đất nước mình, thì mình cũng phải cảm thấy yêu cả những địa danh đó nữa, miền Trung, miền Nam, miền Bắc. Đặc biệt tôi sinh ra ở Hà Nội thì khi đọc đến hai chữ Hà Nội tôi cảm thấy một tình cảm yêu mến vô bờ. Nếu mình không yêu chữ của nước mình thì giống như mình hát một bài hát ngoại quốc vậy. Thí dụ đọc đến chữ “em bé quê” là mình cảm thấy dào dạt tình thương yêu các em nhỏ sống ở những vùng quê nghèo nàn, tôi nói yêu chữ nước mình là vậy. Còn một chuyện nữa là tôi yêu người nghe, luôn luôn tôn trọng khán thính giả. Tôi rất thận trọng khi hát”.
Nhà văn Thụy Khuê viết về Thái Thanh: “Chúng ta có nhiều nghệ sĩ sáng tác những nhạc khúc tuyệt vời với ngôn ngữ thi ca, nhưng chúng ta có ít ca sĩ thấm được hồn thơ trong nhạc bản. Đạt tới tuyệt đỉnh trong ngành trình diễn, Thái Thanh nắm vững cả bốn vùng nghệ thuật: nghệ thuật truyền cảm, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật thi ca và nghệ thuật phát âm tiếng Việt, giữ địa vị độc tôn trong tân nhạc Việt Nam gần nửa thế kỷ: Thái Thanh chẳng cần làm thơ cũng đã là thi sĩ. Giữa những phôi pha của cuộc đời, tàn phai của năm tháng, giọng hát Thái Thanh vang vọng trong bầu trời thơ diễm tuyệt, ở đó đau thương và hạnh phúc quyện lẫn với nhau, người ta cho nhau cả bốn trùng dương và mặc tàn phai, mặc tháng năm, tiếng hát vẫn bay bổng ở chốn trần gian hoặc ở chốn vô hình”…
Cách đây không lâu, một người bạn vừa qua Mỹ vài năm kể với tôi rằng, một hôm, vì nhớ nhà quá, vợ chồng anh mở YouTube tìm nghe nhạc Việt xưa. Vừa bật lên thì gặp ngay ca khúc “Gánh lúa” của Phạm Duy được hát với tiếng hát lảnh lót Thái Thanh. “Mênh mông, mênh mông, sóng lúa mênh mông/ Lúc trời mà rạng đông rạng đông… Ðêm qua trăng mơ sáng khắp thôn quê/ Hỡi chàng mà chàng ơi, chàng ơi… Gánh gánh gánh, gánh thóc về/ Gánh về! Gánh về!”… Bất giác, không thể kìm được, cô vợ rơi nước mắt; còn anh chồng thì mắt đỏ hoe. Có ca khúc quê hương nào đẹp bằng “Gánh lúa” của Phạm Duy? Cũng chắc hiếm ai thổn thức trải một tấm lòng mênh mông hồn quê hương bằng cái cách mà Thái Thanh “gánh” lên đôi vai nhỏ của bà hai chữ “quê tôi”.
Lâu nay bà đã rời sân khấu, để lại một cái nheo mắt hóm hỉnh duyên dáng rất “Thái Thanh”. Giờ thì bà đã đi rất xa. Thế bây giờ có ai còn muốn nghe lại “tiếng hát Việt Nam” của bà? Sao lại không! Từ thuở còn nằm nôi, chúng ta đã biết “tôi yêu tiếng nước tôi” là như thế nào…
Thái Thanh dưới nét vẽ của họa sĩ Đinh Trường Chinh